Lưu trữ Blog

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

ANNA VIẾT TRI ÂN CHO 20/11/2020

GỬI BA CỦA CON!

Con gửi đến Ba- nhân tháng 11 lời TRI ÂN! Tuy một khoảng thời gian dài Ba- và Con ít khi trò chuyện tâm sự. Và nguyên nhân có lẽ cả Ba và Con- ai trong chúng ta cũng đều biết và hiểu. Nhưng đối với con, luôn có sự phân tích rạch ròi trong lý trí và tình cảm.

Hôm nay, con viết những dòng này để gửi lời cảm ơn đến Ba. 

Vì Ba là người đã truyền một phần nào đó sự VÔ TƯ, LẠC QUAN cho con- một phẩm chất đáng quý để con được hạnh phúc tâm hồn.

 Ba cũng là người luôn nhắc nhở con "luôn đọc kỹ đề bài, hiểu đề, thuộc đề làu làu và  tìm thử cách giải trước khi hỏi người khác". Bởi vậy, nên đã hình thành cho con 1 tính cách khá độc lập trong cuộc sống- lẫn công việc - khi gặp khó luôn tự mày mò tìm cách để học, để giải quyết. Con nghĩ đó là Tính cách CHỦ ĐỘNG- cần thiết. 

Ba cũng là người truyền cho con lòng NHIỆT TÌNH, HẾT MÌNH với công việc (tất nhiên Nhiệt tình đúng chỗ). 

Ba cũng là tấm gương cho con thấy về tính TRÁCH NHIỆM với nghề. 

Đặc biệt, ba luôn là người động viên con về CHIỀU CAO KHIÊM TỐN- để con biết con có Ưu điểm gì, nhược điểm gì để phấn đấu HOÀN THIỆN GIÁ TRỊ BẢN THÂN, 

và Ba chẳng bao giờ chê - để giúp con Tự Tin hơn. Cảm ơn Ba đã truyền những giá trị quý trọng đó cho con. 

Chúc BA và mong BA sớm trở lại BA -LÝ- TƯỞNG ! NGƯỜÌ THẦY ĐÁNG KÍNH VÀ YÊU THƯƠNG - ĐÁNG TỰ HÀO CỦA TỤI CON.

GỬI MẸ YÊU THƯƠNG!

Tri ân tháng 11. Thay vì cảm ơn thầy cô dạy dỗ chữ nghĩa, kiến thức. Hôm nay lắng lại một chút, con gửi lời tri ân cảm ơn mẹ. Mẹ là người dạy con bản lĩnh đối diện vấn đề cuộc sống và luôn kiên trì vượt qua khó khăn. Mẹ luôn là người khích lệ con bằng những kho ca dao thơ ca- "Gạo đem vào giã bao đau đớn, gạo giã xong rồi trắng tựa bông". Con được thừa hưởng ý chí, sức bền bỉ, kiên trì của mẹ và tấm lòng biết đồng cảm, yêu thương, sẻ chia, quan tâm, giúp đỡ người khác. Con cảm ơn Mẹ- người thầy đầu tiên và mãi về sau vì tất cả nhé!!! /-heart



Thứ Năm, 6 tháng 8, 2020

Ngày này 1 năm trước mình chọn sinh nhật anh trai để tỏ tình với người mình thích. Thực ra đơn giản vì nhìn quý và muốn thử được thì được không được thôi, chứ chẳng hề đặt nặng nhận lại câu tra lời như thế nào? Hôm nay tròn 1 năm mình vẫn giữ vững "bày tỏ chơi" nhưng " trân trọng như thật". Thực ra mình đoán bạn kia đang thiếu chữ "dám". Nhưng mình cũng không nên tiếp tục chủ động. Mọi việc mình chủ động được ngoại trừ tình cảm ^^ Biết rõ những không bứt lên được. Chấp nhận vui vẻ thôi có sao đâu. 

Thế đấy, trả lời cho câu hỏi TÔI LÀ AI TRONG TƯƠNG LAI
Tự nhiên cảm xúc mình trở nên lạ
Mình muốn ẩn quan hệ với vài người. Chỉ cần lẵng lẽ dõi theo là đủ. Không cần công khai trên vũ đài thành công của ai kia phải có mình.

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2020

ẤP Ủ VỀ MỘT CUỐN SÁCH

Hôm nay khi nói chuyện với tuyến bạn, nhớ ra ấp ủ của mình là viết sách về họ- tuyến trên, tuyến dưới, tuyến bạn.
Theo dõi lại một vài người mình ngạc nhiên- hóa ra chúng ta là người nhà, nhưng chúng ta đã không nhận ra nhau.
Như nhận định về 10 năm trước, người nhà mình nhất định sẽ đạt được thành công trong sự nghiệp khi bước ra ngoài. Và họ đang chứng minh được điều đó!
"Một cuốn sách về chiến binh MLM sẽ ra đời"

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2020

Các quốc hiệu chính thức của Việt Nam

Các quốc hiệu chính thức

Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

Văn Lang

Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và 3 tỉnh Thanh HóaNghệ AnHà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN.

Âu Lạc

Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱[4], 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và 1 phần Tây Nam Quảng Tây (Trung Quốc).
Khoảng cuối thế kỷ III TCN, đầu thế kỷ II TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN[5]), Triệu Đà (Quận úy Nam Hải – nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.

Lĩnh Nam

Năm 40Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật NamCửu ChânGiao ChỉHợp PhốNam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam (嶺南), đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê LinhHà Nội. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng Nhị được bầu làm vương của Giao Chỉ, 6 quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có 1 vương gia. Năm 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.

Vạn Xuân

Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đình trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.

Đại Cồ Việt

Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 87 năm cho đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông thì đổi sang quốc hiệu khác.

Đại Việt

Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài nhất, dù bị gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua các vương triều TrầnMạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.

Đại Ngu

Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu vua Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", chứ không phải là từ "ngu" trong từ "ngu si" (愚癡).

Việt Nam

Tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt
Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.
Giáp tý, Gia Long năm thứ 3 [1804] (nhà Thanh năm Gia Khánh thứ 9), mùa xuân, tháng giêng, Sứ nhà Thanh là án sát Quảng Tây Tề Bố Sâm đến cửa Nam Quan. [Trước đó] mùa hạ năm Nhâm tuất [1801], [Gia Long] sai Trịnh Hoài Đức vượt biển đưa những sắc ấn của Tây Sơn trả lại nhà Thanh. [Sau đó] lại sai Lê Quang Định sang xin phong và xin đổi quốc hiệu: "“Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng, bao gồm cả các nước Việt ThườngChân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã quét sạch miền Nam, vỗ yên được toàn cõi Việt, nên khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt". Vua Thanh trước cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt nên không muốn cho... Vua Thanh gửi thư lại nó: "Khi trước mới có Việt Thường đã xưng Nam Việt, nay lại được toàn cõi An Nam, theo tên mà xét thực thì nên tóm cả đất đai mở mang trước sau, đặt cho tên tốt, định lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên [Việt Nam] xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa [Trung Quốc] lại phân biệt hẳn"... Ngày Quý mão, làm đại lễ bang giao... Sứ giả nhà Thanh đến, vào điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong... Tháng 2, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh sửu, đem việc cáo Thái miếu. Chiếu rằng: "... lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa".[6]
Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) nhiều lần nhắc đến 2 chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy 2 chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).

Đại Nam

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ý 1 nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới là Đại Nam (hay Đại Việt Nam) vào ngày 15/2/ 1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
Sách Quốc sử di biên chép"Tháng 3, ngày 2 (Mậu Tuất, 1938, Minh Mạng thứ 19), bắt đầu đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tờ chiếu đại lược: [...] Vậy bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ 20 (1839) đổi quốc hiệu là Đại Nam, hoặc xưng là Đại Việt Nam cũng được".[7]

Đế quốc Việt Nam

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17/4/1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trong thực tế, Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Việt Nam. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng MinhNam Kỳ mới được trao trả ngày 14/8/1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trao lại chủ quyền Việt Nam cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 – 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 – 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2/9/1945 (Ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Năm 1946Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước để chính thức thành lập Quốc hội và Chính phủ khóa I.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954 – 1975chính thể này tiếp tục phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ thành lập tại miền Nam Việt Nam. Tới năm 1976, chính thể này cùng với chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc gia Việt Nam

Quốc gia Việt Nam là danh xưng của 1 phần vùng lãnh thổ Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp (mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước), ra đời chính thức từ Hiệp ước Élysée ký ngày 8/3/1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Thực tế, chính quyền Quốc gia Việt Nam vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong suốt thời gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm năm 1946. Nó bị coi là một chính phủ bù nhìn của thực dân Pháp.
Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949 – 1955). Năm 1955Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính phủ Việt Nam Cộng hòa.

Việt Nam Cộng hòa

Việt Nam Cộng hòa là tên gọi của một chính thể được Hoa Kỳ hỗ trợ thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế thừa Quốc gia Việt Nam (1949 – 1955). Trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ở miền Nam Việt Nam, chính thể này tồn tại song song với chính thể Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính quyền này sụp đổ vào năm 1975 sau khi đầu hàng Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau đó, Cộng hòa miền Nam Việt Nam có tuyên bố kế thừa các nghĩa vụ, tài sảnquyền và các lợi ích của Việt Nam Cộng hòa.

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là 1 chính thể cũng ở miền Nam Việt Nam, tồn tại từ năm 1969-1976, tên đầy đủ là "Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam". Chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở là những cán bộ Việt Minh được giữ lại miền Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử thống đất nước dự kiến được tổ chức năm 1957 (theo Hiệp định Genève 1954 thì chỉ tập kết quân sự, các thành phần chính trị ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị tổng tuyển cử thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc). Cộng hòa miền Nam Việt Nam có mục tiêu chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hợp nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[8]

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sau khi cuộc Tổng tuyển cử 1976 do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức để thống nhất đất nước về mặt chính trị, ngày 2/7/1976Quốc hội khóa VI quyết định thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2020

Cách để luyện dịch tiếng Hàn sang tiếng Việt

Để đọc hiểu và dịch hợp lý giữa hai ngôn ngữ Hàn Việt thì sự phân biệt: sự khác biệt trong cấu trúc câu Hàn – Việt; mối quan hệ giữa các vế; vế chính, vế phụ. (Trích từ cô Lê Vân Anh- Hà Nội)

1. Sự khác biệt trong cấu trúc Hàn – Việt


Cấu trúc trong tiếng Việt: S + V + O
Cấu trúc Hàn: S + O + V
Để dịch từ Hàn – Việt thì chủ ngữ chính (nằm ở đầu câu) và động từ chính (nằm ở cuối câu) được dịch trước; tân ngữ (nằm ở giữa câu) dịch cuối.
Ví dụ:
모든 세대가 텔레비전보다 신문을 더 많이 본다
Xác định
Chủ ngữ: 모든 세대가 – Tất cả các thế hệ
Động từ chính: 본다 – xem
Tân ngữ: 신물을 – báo
Phó từ: 더 많이 – nhiều hơn
Phó từ: 텔레비전보다 – hơn tivi
Dịch câu theo đúng trật tự sang tiếng Việt:
모든 세대가 텔레비전보다 신문을 더 많이 본다
모든 세대가 / 본다/ 신문을/ 더 많이/ 텔레비전보다
Tất cả các thế hệ đều xem báo nhiều hơn xem tivi.

2. Mối quan hệ giữa các vế câu

Mối quan hệ giữa các vế như
– Nguyên nhân kết quả (Vì … nên … = 아/어서 hoặc (으)니까…)
– Mục đích (Để mà … = 기 위해서 hoặc (으)려고…)
– Giả định (Nếu … thì … = (으)면…)
– Bổ sung (Không những … mà còn … = (으)ㄹ 뿐만 아니라…)
Như vậy trong nhiều trường hợp thứ tự sắp xếp giữa các vế câu tiếng Hàn giống với sắp xếp vế câu tiếng Việt thế nên chỉ cần xác định của mối quan hệ các vế và lần lượt dịch từng vế và ghép vào là được.
Ví dụ
악보를 외우면 작곡가를 좀 더 이해하게 되어 결국 작품에 대한 표현력이 풍성해질 수 있다.
Xác định mối quan hệ giả định 외우면 > (으)면, mối quan hệ nguyên nhân kết quả 되어 > 아/어(서)
Trật tự các vế:
~(으)면 ~아/어(서) ~: Nếu … thì … thế nên …
Dịch
악보를 외우면: Nếu thuộc lòng bản nhạc
작곡가를 좀 더 이해하게 되어: thì sẽ hiểu hơn về tác giả
결국 작품에 대한 표현력이 풍성해질 수 있다: thế nên (điều đó) cuối cùng sẽ làm phong phú khả năng thể hiện tác phẩm

3. Vế chính, vế phụ

Trong khuôn khổ bài này thì mình chỉ nói đến một loại vế phụ là loại cụm danh từ, danh từ được tính từ hoặc động từ bổ nghĩa.
Cấu trúc tiếng Hàn: V/A 은/는/을 N
Cấu trúc tiếng Việt: N (mà) V/A
Vậy nên để dịch các cụm danh từ này từ Hàn sang Việt thì phải dịch ngược từ danh từ rồi mới đến mệnh đề bổ nghĩa.
Ví dụ:
요즘 꽃차를 즐겨 마시는 사람들이 늘고 있다.
Chủ ngữ: 사람들이 – những người
Vị ngữ: 늘고 있다 – đang tăng
Trong chủ ngữ ta lại thấy cụm danh từ 꽃차를 즐겨 마시는 사람들 (trong đó 사람들: danh từ được bổ nghĩa, 꽃차를 즐겨 마시다: cụm động từ bổ nghĩa)
Dịch ngược: 꽃차를 즐겨 마시는 사람들 – những người mà thích uống trà hoa
Dịch câu theo đúng trật tự sang tiếng Việt:
요즘 꽃차를 즐겨 마시는 사람들이 늘고 있다.
요즘/ 사람들이/ 꽃차를 즐겨 마시는/ 늘고 있다
Gần đây những người mà thích uống trà hoa đang tăng lên.
✥Tổng kết:
 Dựa vào số lượng các động từ để xác định số lượng các vế câu
 Dựa vào ý nghĩa ngữ pháp của các vĩ tố kết hợp với động từ 아/어서, (으)면, 다가 để xác định mối quan hệ giữa các vế câu từ đó đưa ra được đâu là vế chính, đâu là vế phụ
 Cuối cùng là sắp xếp lại theo đúng trật tự tiếng Việt.
Ví dụ:
서울대학교 의과대학 본과 4학년 때 선택의학 과목으로 기생충을 선택했다가 남은 생을 기생충과 함께하기로 마음먹은 그는, 현재 단국대학교 의과대학에서 기생충학을 가르치고 있다.
Xác định
Chủ ngữ chính: 그는 – Anh ấy
Động từ chính: 가르치고 있다 – đang dạy
Tân ngữ: 기생충학을 – môn ký sinh trùng
Ta được vế chính:
그는 현재 단국대학교 의과대학에서 기생충학을 가르치고 있다.
그는/ 현재/ 가르치고 있다/ 기생충학을/ 단국대학교 의과대학에서/
Anh ấy hiện tại đang dạy môn ký sinh trùng tại Đại học Y – Đại học Danguk.
Tuy nhiên trong chủ ngữ 그는 lại được bổ sung nghĩa
서울대학교 의과대학 본과 4학년 때 선택의학 과목으로 기생충을 선택했다가 남은 생을 기생충과 함께하기로 마음먹은 그는
Vậy thì toàn bộ phần phía trước 그는 ta dịch theo bình thường và khi ghép vào thì nó sẽ nằm sau danh từ 그는 – Anh ấy
Dịch vế câu bổ nghĩa:
서울대학교 의과대학 본과 4학년 때 선택의학 과목으로 기생충을 선택했다가 남은 생을 기생충과 함께하기로 마음먹은:
Ngữ pháp
~ 때 thể hiện thời gian:
서울대학교 의과대학 본과 4학년 때 – Khi học khóa chính quy 4 năm tại Đại học Y – Đại học Seoul,
~ 았/었다가 thể hiện trật tự hành động trước, sau trong quá khứ:
선택의학 과목으로 기생충을 선택했다가 – Đã chọn môn kí sinh trùng là môn học tự chọn rồi sau đó
~V기로 마음먹다 quyết tâm làm gì
남은 생을 기생충과 함께하기로 마음먹은 – Đã quyết tâm dành cả đời còn lại làm viêc cùng với ký sinh trùng.
Dịch cả câu theo đúng trật tự tiếng Việt:
서울대학교 의과대학 본과 4학년 때 선택의학 과목으로 기생충을 선택했다가 남은 생을 기생충과 함께하기로 마음먹은 그는, 현재 단국대학교 의과대학에서 기생충학을 가르치고 있다.
그는/ 서울대학교 의과대학 본과 4학년 때 / 선택의학 과목으로 기생충을 선택했다가 / 남은 생을 기생충과 함께하기로 마음먹은/ 현재 / 가르치고 있다/ 기생충학을 / 단국대학교 의과대학에서.
Ạnh ấy, người mà khi học 4 năm chính quy tại Đại học Y – Đại học Seoul đã chọn môn ký sinh trùng là môn học tự chọn và sau đó đã quyết tâm dành cả đời còn lại làm việc cùng với ký sinh trùng, hiện tại đang giảng dạy môn ký sinh trùng tại Đại học Y Đại học Danguk.
Tuy nhiên là có thể thấy vế bổ sung nghĩa cho danh từ 그는 giải thích về thời trước khi anh ta còn đi học còn vế chính giải thích cho hiện tại anh ấy đang dạy học thì trong tiếng Việt các hành động này hoàn toàn có thể liệt kê theo thứ tự thời gian.
Hoặc mình tách làm 2 câu vì cho rằng cả hai vế đều có mối quan hệ tuyến tính hoàn toàn có thể liệt kê thành từng câu riêng mà không phá hỏng tầm quan trọng của các vế tác giả đưa ra.
Khi học khóa chính quy 4 năm tại Đại học Y – Đại học Seoul, anh ấy đã chọn môn ký sinh trùng là môn hoc tự chọn, từ đó anh đã quyết tâm dành phần đời còn lại để làm việc cùng với ký sinh trùng. Anh hiện nay đang giảng dạy môn ký sinh trùng tại trường Đại học Y – Đại học Danguk.
Hy vọng bài viết này giúp các bạn hiểu rõ về cách đọc – hiểu – dịch những câu tiếng Hàn dài.”