NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC PHÁT ÂM TIẾNG HÀN
ĐỐI VỚI SINH VIÊN VIỆT NAM NĂM I, NĂM II
ThS. Đỗ Ngọc Luyến
BM Hàn Quốc học
ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp.HCM
I. Sự cần thiết của việc dạy và học phát âm chính xác ngay từ khi mới học vỡ lòng.
Ngày nay việc học ngoại ngữ không còn xa lạ đối với người Việt Nam nữa. Một người Việt có thể sữ dụng hai, ba ngoại ngữ là việc bình thường. Tuy nhiên việc học tốt ngoại ngữ không dừng lại ở việc biết nhiều ngữ pháp, nhiều từ vựng và dùng câu chính xác mà nó còn phải thể hiện ở chỗ dùng câu tự nhiên như người bản xứ, đặc biệt là khi nói phải phát âm tự nhiên như người bản xứ thì mới được đánh giá là giỏi ngoại ngữ.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu vì thế khi người Việt học ngoại ngữ rất dễ bị ảnh hưởng của tiếng Việt và phát âm sai dẫn tới hiểu lầm trong câu nói. Và nếu những lỗi phát âm này không được chấn chỉnh ngay từ khi mới bắt đầu học ngoại ngữ thì nó sẽ trở thành lỗi không thể sửa được. Và nếu người học phát âm sai sẽ dẫn tới viết sai, gây trở ngại cho việc trao đổi thông tin.
II. So sánh giữa hệ thống âm tiếng Việt và tiếng Hàn.
1. Nguyên âm
Trong tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi /ie/, /uo/, /ƜƏ/, trong tiếng Hàn có 10 nguyên âm đơn và 11 nguyên âm đôi được chia thành 3 nhóm: nhóm nguyên âm đôi bán âm j (ㅑ, ㅕ, ㅛ, ㅠ, ㅒ, ㅖ), nhóm nguyên âm đôi bán âm w (ㅘ, ㅝ, ㅙ, ㅞ, ㅚ, ㅟ) và nhóm ㅢ
1.1 . Nguyên âm đơn
Bảng so sánh nguyên âm đơn trong tiếng Việt và tiếng Hàn: Tiếng Hàn bên trái, tiếng Việt bên phải.
Vị trí của lưỡi
Độ nâng của lưỡi Trước Sau
Không tròn môi Tròn môi Không tròn môi Tròn môi
Cao ㅣ (i) ㅟ ㅡ (ư) ㅜ (u)
Trung bình ㅔ (ê) ㅚ ㅓ (ơ,â) ㅗ (ô)
Thấp ㅐ (e) ㅏ (a,ă) (o)
1.2. Nguyên âm đôi.
a) Tiếng Việt
- Trong tiếng Việt có 3 nguyên âm đôi, mỗi nguyên âm có hai cách viết, tùy theo phía sau nó có âm cuối hay không và phát âm lần lượt.
Ví dụ:
1) Viết thành ia,ưa,ua khi không có phụ âm cuối. (chưa, mua, bia)
2) Viết thành iê, ươ, uô khi sau chúng có phụ âm cuối.(muốn, mượn, tiền)
- Và chữ i trong nguyên âm iê được viết thành y khi trước nó có âm đệm u.
Ví dụ: Khuya, khuyên.
b) Tiếng Hàn.
- Khi phát âm nguyên âm đôi bán âm j thì bắt đầu từ vị trí y (ㅣ) sau đó đọc tiếp tục các âm đi kèm theo.
Ví dụ: Khi phát âmㅑ(ya) , thì bắt đầu từ âm ‘y’ sau đó đến ‘a’ để tạo thành âm ‘ya’.
- Khi phát âm nguyên âm đôi bán âm ‘w’ thì môi tròn và phát âm bắt đầu từ ‘ㅗ/ㅜ’ (ô/u) sau đó đến các âm tiếp theo.
Ví dụ: Khi phát âm ‘워’(u∂) thì bắt đầu từ “w’ sau đó đến ‘∂’ để tạo thành âm ‘u∂’
- Trong các nguyên âm đơn trong tiếng Hàn thì âm ‘ㅢ’ là âm có nhiều cách phát âm khác nhau (‘ㅢ’(ưi), ‘ㅣ’(i), ‘ㅔ’(ê) )tùy thuộc vào vị trí của nó trong từ.
Ví dụ:
+ Khi phát âm 의사, ‘의’ nằm ở vị trí đầu tiên của từ và không có một phụ âm nào đứng trước nó thì nó được phát âm 의 (ưi)
+ Khi phát âm 희망 hoặc 강의실, thì ‘의’ nằm sau 1 phụ âm ㅎ và sau 강, nên nó được phát âm là ‘ㅣ’(i)
+ Khi phát âm 1 từ chỉ sở hữu như 선생님의 집 thì ‘의’ thường được đọc là 에 nhưng cũng có khi đọc là 의.
Nguyên âm trong tiếng Hàn và tiếng Việt dù là đơn hay đôi thì cũng không có sự khác biệt lớn, vì vậy khi người Việt học tiếng Hàn thì ít mắc phải lỗi nguyên âm.
2. Phụ âm
Tiếng Hàn Tiếng Việt So sánh
ㄱ Phụ âm này trong tiếng Hàn có cách phát âm giữa ‘kh’ & ‘k’ trong tiếng Việt nhưng nếu phụ âm này nằm phía sau các phát âm khác trong cùng 1 từ thì được phát âm giữa ‘g’ & ‘k’ và có 1 thanh trầm.
ㄴ n Giống với ‘n’ trong tiếng Việt.
ㄷ Phụ âm này trong tiếng Hàn có cách phát âm giữa ‘th’ & ‘t’ trong tiếng Việt nhưng nếu phụ âm này nằm phía sau các phát âm khác trong cùng 1 từ thì được phát âm giữa ‘đ’ & ‘t’ và có 1 thanh trầm.
ㄸ Là âm tắt và có cách đọc giống như âm ‘t’ của tiếng Việt nhưng phải đọc căng và bỏng.
ㄹ r Giống với cách phát âm của phụ âm ‘r’ trong tiếng Việt.
ㅁ m Giống với cách phát âm của phụ âm ‘m’ trong tiếng Việt.
ㅂ Phụ âm này trong tiếng Hàn có cách phát âm gần giống như ‘p’ trong tiếng Việt nhưng nếu phụ âm này nằm phía sau các phát âm khác trong cùng 1 từ thì được phát âm giữa ‘b’ và trầm
ㅃ Là âm tắt và có cách phát âm giống như âm ‘b’ của tiếng Việt nhưng phải đọc căng và bỏng
ㅅ Phụ âm này có cách đọc giống âm ‘x’ trong tiếng Việt nhưng độ cọ xát của lưỡi và môi ít hơn ‘x’ và bỏng
ㅆ Là 1 âm tắt và có cách phát âm giống với ‘x’ của tiếng Việt nhưng phải đọc căng và bỏng
ㅇ Phụ âm này khi đứng sau nguyên âm thì được phát âm giống như phụ âm cuối ‘ng’
ㅈ Phụ âm này trong tiếng Hàn có cách phát âm giữa ‘ch’ & ‘gi’ trong tiếng Việt và trầm.
ㅉ Là âm tắt và có cách đọc giống âm ‘ch’ trong tiếng Việt nhưng vì là âm tắt nên phải đọc căng và bỏng.
ㅊ Là âm bật hơi và có cách đọc giống như âm ‘ch’ trong tiếng Việt nhưng vì là âm bật hơi, nên lượng hơi bị chặng lại ở đầu lưỡi và răng trên răng dưới sau đó phát ra ngoài và bỏng.
ㅋ kh Là âm bật hơi và có phát âm giống như âm ‘kh’ trong tiếng Việt nhưng đọc mạnh và hơi nhiều hơn chữ ‘kh’ trong tiếng Việt.
ㅌ th Là âm bật hơi và có phát âm giống như âm ‘th’ trong tiếng Việt nhưng đọc mạnh và hơi nhiều hơn chữ ‘th’ trong tiếng Việt.
ㅍ ph Là âm bật hơi và có phát âm giống như âm ‘ph’ trong tiếng Việt nhưng đọc mạnh và hơi nhiều hơn chữ ‘ph’ trong tiếng Việt.
ㅎ h Giống như âm ‘h’ trong tiếng Việt nhưng lượng hơi nhiều hơn ‘h’ trong tiếng Việt.
3. Ngữ điệu
- Trong tiếng Việt có 6 thanh điệu và ngữ điệu thể hiện qua thanh điệu.
Ví dụ: Mẹ đi vắng.
- Trong tiếng Hàn thì không có thanh điệu nhưng có ngữ điệu (trầm- low, bỏng-high)
Ví dụ:
나는 어머니를 좋아해요.
LH LHLH LHLH
- Với những trường hợp các từ bắt đầu bằng các âm tắt và âm bật hơi thì theo quy tắc bỏng bỏng trầm bỏng.
Ví dụ:
할머니는 선생님이셨다.
HHLH HHLHHL
- Và trong tiếng Hàn có đặc trưng là âm ở cuối câu đọc dài hơn những âm khác trong câu, và các mệnh đề được phân biệt nhau qua cách ngắt cuối mệnh đề.
Ví dụ:
낮말은 새가 듣고 밤말은 쥐가 듣는다.
LHH HHLL LHH LH LLL
- Thông thường thì tùy vào tính chất của câu mà âm ở cuối câu sẽ đọc bỏng lên hay đọc trầm xuống.
+ Trong câu hỏi có từ để hỏi (cái gì, ở đâu, như thế nào…) thì âm ở cuối câu có khuynh hướng đọc trầm (low)
Ví dụ: 무슨 음식을 좋아합니까

? (Bạn thích thức ăn gì?)
+ Trong câu hỏi có, không thì âm ở cuối câu có khuynh hướng đọc bỏng (high)
Ví dụ; 수업이 재미있습니까

? (Lớp học có vui không?)
Chính vì âm trầm bỏng trong tiếng Hàn không theo 1 quy tắc cố định vì vậy nên đối với những người sử dụng tiếng mẹ đẻ là tiếng có thanh điệu và ngữ điệu thường thể hiện trên thanh điệu như tiếng Việt khi phát âm tiếng Hàn rất khó để mà cảm nhận cho đúng những trầm bỏng trong tiếng Hàn.
III. Những lỗi phát âm mà sinh viên Việt Nam thường mắc phải và nguyên nhân của chúng.
Dựa vào kết quả thu thập tài liệu ghi âm bài đọc tiếng Hàn của sinh viên năm II, ngành Hàn Quốc học từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 5 năm 2007 thì sinh viên thường mắc những lỗi phát âm như sau:
1. Lỗi phát âm nguyên âm
Như đã phân tích ở phần II thì nguyên âm trong tiếng Việt và tiếng Hàn rất giống nhau nên sinh viên thường ít mắc lỗi nguyên âm .Tuy nhiên do có 1 số nguyên âm đôi trong tiếng Hàn có cách đọc khác với chữ viết nên đôi khi sinh viên mắc lỗi.
1.1. Lỗi phát âm nguyên âm ‘의’
Như đã trình bày ở phần II thì với nguyên âm này có 3 cách đọc và khi đọc trong bài thì sinh viên không phân biệt từng trường hợp và mắc lỗi như sau:
a) 적군들의 이야기를 들었어요. => “의” được phát thành “이”.
b) 희망합니다. => ‘의’ được phát thành ‘의’.
1.2 Lỗi phát âm nguyên âm ‘외’
Trong tiếng Hàn nguyên âm ‘ㅚ’ (oe) vừa được xem là nguyên âm đôi, vừa được xem là nguyên âm đơn nên sinh viên khi phát âm dễ phân tích thành ‘ㅗ’ kết hợp với ‘l’
Ví dụ: 최선을 다하겠습니다 => ‘ㅚ’ được đọc thành ‘ㅗㅣ’
2. Lỗi phát âm phụ âm
2.1 . Không phân biệt được âm tắt, âm thường và âm bật hơi.
2.1.1 ㄱ, ㄲ, ㅋ
Như đã phân tích ở phần II thì trong tiếng Việt chỉ có phụ âm ‘k’, ‘c’, hoăc ‘kh’ nhưng trong tiếng Hàn phụ âm ‘ㄱ’ có cách phát âm, giữa ‘k’ và ‘kh’ trong tiếng Việt và phụ âm ‘ㄲ’ có phần giống âm ‘k’ trong tiếng Việt nhưng là vì âm tắt nên cần phải đọc căng. Còn phụ âm ‘kh’ thì được phát âm như ‘kh’ trong tiếng Việt nhưng là âm bật hơi nên khi phát âm lượng hơi nhiều hơn ‘kh’. Vì những sự khác nhau không rạch ròi như thế này nên sinh viên khó có thể phân biệt chính xác nếu không được nhận thức rõ ngay từ lúc sơ cấp thì thường mắc các lỗi sau:
a) * 개긋하다 => 깨끗하다.
b) * 까장 중요합니다. => 가장 중요합니다.
2.1.2 ㅂ, ㅃ, ㅍ
Cũng giống như sự khác biệt không được rạch ròi giữa các âm bật hơi , âm tắt và âm thường khác, thì ‘ㅂ’ được phát âm gần giống như âm ‘p’ trong tiếng Việt và trầm .Phụ âm ‘ㅃ’ thì được phát âm như ‘b’ trong tiếng Việt nhưng vì là âm bật tắt nên đọc căng và bỏng. Còn phụ âm ‘ㅍ’ thì có cách phát âm giống như âm ‘ph’ trong tiếng Việt nhưng đọc mạnh và hơi nhiều hơn chữ ‘ph’ trong tiếng Việt và bỏng. Vì thế sinh viên thường mắc các lỗi sau:
Ví dụ:
a) * 발리 하세요. => 빨리 하세요.
b) * 살을 뱄어요. => 살을 뺐어요.
c) * 바리에 있어요. => 파리에 있어요.
2.1.3. ㅅ, ㅆ
Phụ âm ‘ㅅ’ có cách phát âm gần giống như ‘x’ nhưng sự cọ xát giữa lưỡi và hàm trên của ‘ㅅ’ ít hơn ‘x’ và bỏng. Còn ‘ㅆ’ cũng có cách phát âm giống ‘x’ nhưng vì là âm tắt nên phát âm căng và bỏng. Vì thế sinh viên dễ mắc các lỗi sau:
Ví dụ:
a) * 스레기 => 쓰레기
b) * 살 수출 => 쌀 수출
2.1.4 ㅈ,ㅉ,ㅊ
Trong tiếng Việt chỉ có âm ‘ch’ nhưng trong tiếng Hàn có cách phát âm giống với ‘ch’ có 3 phụ âm ‘ㅈ’, ‘ㅊ’, ‘ㅉ’. Như đã phân tích ở phần II, thì sinh viên Việt Nam rất khó phân biệt chính xác 3 âm này và dễ mắc các lỗi sau:
Ví dụ:
a) * 쫀경하다 => 존경하다
b) * 자증나다 => 짜증나다.
c) * 저음부터 => 처음부터
2.2. Nhằm lẫn giữa các phụ âm cuối như ‘ㄹ’ , ‘ㄴ ’, ‘ㅇ’
- ‘ㄹ’ trong tiếng Hàn giống với cách phát âm của phụ âm ‘r’ trong tiếng Việt khi đứng ở vị trí phụ âm đầu. Nhưng trong tiếng Việt không có phụ âm cuối là ‘r’ nên khi sinh viên Việt Nam dễ mắc lỗi khi phát âm những từ có phụ âm cuối này.
Ví dụ:
a) *오는 집에 갈 거예요. => 오늘 집에 갈 거예요.
b) 서운 => 서울
- Trong cách phát âm của người miền nam Việt Nam thì phụ âm cuối ‘n’ & ‘ng’ thường lẫn lộn với nhau. Ví dụ khi phát âm chữ ‘lan’ thì nhiều người miền nam Việt Nam phát âm là ‘lang’, do vậy khi phát âm tiếng Hàn cũng dễ bị ảnh hưởng.
Ví dụ:
a) * 좋아하명 얘기해요. =>> 좋아하면 얘기해요.
b) * 재미있능 이야기 => 재미있는 이야기
2.3. Mắc những lỗi phát âm do nguyên tắc biến âm.
Một trong những đặc trưng trong phát âm của tiếng Hàn là nguyên tắc biến âm khi các âm gặp nhau. Ví dụ khi đọc chữ ‘한국말’ thì không đọc theo chữ viết mà bị biến âm thành ‘한궁말’. Và những quy tắc như thế này rất nhiều trong tiếng Hàn nên sinh viên khó có thể thuộc hết tất cả các nguyên tắc này nên dễ gặp những lỗi như sau:
Ví dụ:
a) * 학년 => 항년
b) * 국민 => 궁민
ㅊ)* 결혼하다 => 겨론하다.
3. Ngữ điệu
Trong tiếng Việt có sau thanh điệu nên khi phát âm chỉ cần phát âm đúng với các thanh là được, nhưng trong tiếng Hàn mặc dù không có thanh điệu nhưng có ngữ điệu. Và những ngữ điệu này tùy thuộc vào nội dung, cách thể hiện câu. Vì thế khi sinh viên Việt Nam phát âm tiếng Hàn dễ bị ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và phát âm lên xuống rất nhiều trong 1 câu. Điều này không thể nói là mắc lỗi mà là phát âm không giống với người Hàn. Vì vậy khi những người Hàn không thường xuyên tiếp xúc với người nước ngoài sẽ rất khó hiểu khi nghe phát âm tiếng Hàn theo kiểu Việt Nam
Ví dụ:
III.Phương pháp dạy và học phát âm tiếng Hàn
Dựa vào kết quả phân tích ở trên thì sau đây là một số nguyên tắc và một số phương pháp dạy và học phát âm tiếng Hàn. Để dạy và học tiếng Hàn có hiệu quả trước hết cả người dạy và người học phải thống nhất 1 số nguyên tắc cơ bản sau:
1. Nguyên tắc cơ bản
- Giáo viên phải hiểu rõ sự khác biệt giữa âm trong tiếng Hàn và âm trong tiếng Việt. Phải như thế thì giáo viên mới có thể biết được là người học gặp khó khăn trong phát âm nào để tập trung luyện tập âm đó.
- Và đối với những âm không giống tiếng Việt hoàn toàn thì ngay từ đầu không nên lấy tiếng Việt làm chuẩn mà phải cho sinh viên nghe âm chính xác và lặp lại chính xác. Vì nếu ngay từ đầu người học nhận thức nó bằng âm của tiếng Việt thì rất khó sửa.
- Khi luyện tập thì không nên luyện những âm riêng lẽ mà nên dùng từ có nghĩa mà người học sẽ thường xuyên gặp sau này.
- Đưa ra những quy tắc phát âm và luyện tập các quy tắc này bằng các từ thường dùng.
- Cần phải luyện tập kỹ phát âm ở cấp sơ cấp.
2. Những phương pháp dạy và học nhằm giảm những lỗi phát âm.
2.1 Để giảm lỗi phát âm nguyên âm.
Đối với các lỗi phát âm nguyên âm thì có hai phương pháp sau:
- Đối với những âm có quy tắc như ‘ㅢ’ thì nên giải thích rõ về quy tắc phát âm. Sau đó luyện tập bằng các từ thường dùng, ví dụ như ‘의자’, ‘의사’, ‘의견’, ‘의학’, ‘희망’, ‘강의실’, ‘협의’ ‘선생님의 집’, ‘학생들의 책’ v.v
- Đối với những âm cố định như ‘ㅚ,ㅙ,ㅞ’ thì cho người học học thuộc lòng quy tắc phát âm bằng cách dùng những từ thường dùng. Vì số lượng những từ có những nguyên âm này không nhiều, đặc biệt là ‘ㅙ’ và ‘ㅞ’ nên người dạy có thể lược những từ thường dùng nhất để giúp người học học thuộc. Ví dụ như 최선 다 하겠습니다. , 최 선생님, 외국인,외교관, 외롭다, 외우다, 외모, 외출, 왜?, 왜곡, 웬, 꽃이냐?, 웬만하다, 웨딩v.v.. Nếu người học học thuộc từ như thế này thì không những là mang lại hiệu quả phát âm mà còn giúp người học tự hình thành cho mình một vốn từ vựng.
2.2 Để giảm lỗi phát âm phụ âm
Để giúp người học không mắc những lỗi phụ âm như đã phân tích ở trên thì khi dạy các phụ âm này nên đồng thời giới thiệu về vị trí lưỡi, môi, độ bật hơi, độ căng của những phụ âm này. Ví dụ như khi người dạy dạy cho người học gặp 1 phát âm nào đó thì cần phải giải thích rõ rằng lưỡi nằm ở đâu, hơi ra từ phổi như thế nào, hơi có bị chặng ở đâu không v.v và luyện tập những từ thường dùng trong cuộc sống mà có phát âm đó. Và cũng cần cho người học nghe & nhận thức rõ khi người Hàn phát âm những âm này thì người Hàn phát âm như thế nào.
2.3 Để giảm lỗi phát âm biến âm
Để giảm bớt những lỗi biến âm thì cần cụ thể hóa các quy tắc biến âm và trong từng quy tắc cho những từ thông dụng điển hình để luyện tập. Đặc biệt là cho người học học thuộc mỗi từ 1 quy tắc cũng là cách hay. Vì nếu học thuộc 1 từ như thế khi gặp 1 từ tương tự thì người học sẽ liên tưởng đến từ đã học và sữ dụng. Và còn một quy tắc rất dễ nhận thấy là trong tiếng Hàn không có cách phát âm lên cao theo kiễu dấu sắc và phát âm xuống thấp như dấu huyền trong tiếng Việt, và các từ luôn dựa vào nhau để tạo thành thế quân bình trong 1 từ, vì vậy khi phát âm chú ý điểm này thì sẽ giảm bớt các lỗi phát âm biến âm. Ví dụ kh phát âm từ ‘국민’ nếu phát âm riêng lẽ thì sẽ trở thành ‘국’

’민’ nhưng nếu giảm bớt độ cao của từ ‘국’ thì sẽ đọc thành ‘궁민’.
2.4 Ngữ điệu
Ngữ điệu của một ngôn ngữ thì chỉ có những người dùng tiếng mẹ đẻ từ nhỏ nên mới có thể có một ngữ điệu tự nhiên, vì thế đối với người nước ngoài không thể tiếp nhận và thành thục trong một ngày một bữa mà cần phải có sự luyện tập và bắt chước theo những người sử dụng ngôn ngữ đó như tiếng mẹ đẻ.
Trước hết cần phải giúp cho người học nhận thức những ngữ điệu cơ bản của tiếng Hàn và bắt chước đọc như người Hàn. Sau đó cho người học ghi âm lại phần phát âm của mình và so sánh với phần phát âm của người Hàn sẽ giúp cho người học nhận thấy lỗi phát âm của mình hay sự khác biệt giữa phần phát âm của mình và người Hàn. Để từ đó người học tự rút ra cho mình một kinh nghiêm để luyện ngữ điệu.
3. Những hoạt động để luyện phát âm tùy theo trình độ của người học.
3.1 Đối với năm I
3.1.1 Luyện tập những nguyên và phụ âm cơ bản
- Dùng tên của học viên để luyện phát âm, vì như thế người học cảm thấy thú vị khi luyện tập tên của mình.
- Dùng những từ thường dùng trong cuộc sống hàng ngày để luyện tập. Và không nên làm cho học viên cảm thấy tiếng Hàn là một thứ tiếng vô cùng khó, mà phải làm cho học viên cảm thấy tiếng Hàn thú vị. Ví dụ như học viên sẽ luyện tập các chữ như 학생, 교수, 가수, 기숙사, 대사관, 주의…
3.1.2 Thông qua các trò chơi để luyện tập âm thường, âm tắt và âm bật hơi.
- Chia các nhóm ra để tham gia trò chơi. Dùng 1 trang giấy có rất nhiều từ có chứa âm thường, âm tắt và âm bật hơi. Sau đó 1 nhóm sẽ đọc và các nhóm khác đánh vào. Giáo viên kiểm tra xem nhón đọc có đọc đúng không hay nhóm chọn có chọn đúng âm đã được đọc chưa.
- Chia nhóm ra và giáo viên phát cho mỗi nhóm những tờ giấy có chứa các từ có âm thường, âm tắt và âm bật hơi, sau đó giáo viên phát âm, nhóm nào giơ đúng từ đã được phát âm sớm nhất sẽ chiến thắng.
- Thông qua những phương pháp như thế này người họcc vừa tự kiểm tra mình và vừa được đánh giá người khác. Vì thế người học sẽ cảm thấy thú vị khi tham gia trò chơi như thế sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn.
3.2 Năm II
3.2.1 Luyện phát âm thông qua hoạt động nhóm
3.2.2 Luyện tập phát âm theo phim
IV. Kết luận
Phát âm là phần quan trọng cần phải hiểu rõ và luyện tập kỹ ngay từ đầu. Vì ở trình độ sơ cấp người học chưa có nhiều kiến thức về tiếng Hàn nên không cần mất thời gian để luyện ngữ pháp hay những kỹ năng khác mà phải luyện phát âm thật chính xác. Giống như việc trẻ con bắt đầu học nói thì điều đầu tiên chúng ta dạy cho trẻ con là phát âm đúng và nói theo người lớn, vì thế việc dạy các lớp sơ cấp cần phải xoáy mạnh vào phát âm. Đặc biệt nên dùng những từ có thể gây sự thích thú của học viên, ví dụ như dùng từ có âm Hán Hàn giống với âm Hán Việt để luyện tập, hoặc dùng những từ mà người học có thể dùng được trong cuộc sống hàng ngày, ví dụ như số đếm v.v Điều quan trọng là phải giúp người học có thói quen bắt chước giống như người bản xứ. Và điều cần thiết nhất ở người dạy là hiểu biết về những quy tắc phát âm, hiểu rõ sự khác biệt giữa âm tiếng Hàn và tiếng Việt.