Lưu trữ Blog

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Địa chính trị HQ

 

2. Vấn đề 2: Địa chính trị HQ và vai trò , ý nghĩa của ĐCT HQ

 - Lý thuyết ĐCT: ĐCT là gì? Các trường phái ĐCT? - Quan niệm của HQ về ĐCT? - NHững bộ phận cấu thành ĐCT HQ: Địa lí tự nhiên, vị trí địa lí trong khu vực và ngoài khu vực - Tiềm năng, tiềm lực HQ có gì? Tài nguyên thiên nhiên, chất lượng dân số, VH-KH-KT-CN. Phân tố nhân tố quan trọng nhất(ko phải dân số, tài nguyên). - Địa chiến lược là gì?

 

1.    Lý thuyết địa chính trị:

-       Địa chính trị là gì?  Quan điểm của Hàn Quốc về ĐCT như thế nào? Quan điểm ĐCT của Việt Nam về ĐCT như thế nào

-       Các trường phái địa chính trị?

2.    Các bộ phận cấu thành địa chính trị Hàn Quốc:

-       Điều kiện địa lý tự nhiên:

+ Phân tích vị trí địa lý của Hàn Quốc có vai trò như thế nào đối với Khu vực, Thế giới -> Có quan trọng hay không?

Vd: Vị trí HQ  đóng vai trò huyết mạch giao thương buôn bán -> tiềm năng hình thành  Cướp biển…

-       Tiềm năng, tiềm lực quốc gia của Hàn Quốc:

+ Tiềm năng về dân số ( số lượng + chất lượng dân số)

+ Tiềm năng về diện tích

+ Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên

+ Tiềm năng về Khoa học công nghệ

+ Tiềm năng về giáo dục tiên tiến

+ Tiềm năng quân sự

+ Tiềm năng kinh tế

+ Tiềm năng về  nền văn hóa ( văn hóa đặc trưng? văn hóa vay mượn?

ð Kết luận: Nhân tố nào quan trọng chi phối Địa Chính trị Hàn Quốc? -> chi phối đến hoạt động đối ngoại của HQ với các quốc gia.

-       Địa chiến lược là gì?

+ Nghĩa hẹp: Đánh giá  giá trị của nhân tố địa lý của HQ quyết định đến sự phát triển quốc gia thông qua những hoạch định chiến lược.

+ Nghĩa rộng: Học thuyết lý luận đề cập đến việc phán định sự phát triển của một quốc gia như thế nào ? ( Vd: Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường, bối cảnh chính trị,..)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Địa chính trị (Geopolitics)

https://nghiencuuquocte.org/2015/05/01/dia-chinh-tri/

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Địa chính trị là lĩnh vực nghiên cứu về tác động của các yếu tố địa lý tới hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị xem xét việc các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, hay địa hình tác động như thế nào tới chính sách đối ngoại của một quốc gia và vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế.

Khái niệm “địa chính trị” lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển Rudolf Kjellen vào năm 1899. Kjillen cho rằng các đặc điểm về kinh tế, chính trị và quân sự của một quốc gia bắt nguồn từ các yếu tố địa lý và môi trường của quốc gia đó. Các yếu tố địa lý này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển về kinh tế-xã hội và chính trị, đồng thời góp phần định hình bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Kjellen đặc biệt chú ý tới tác động của các đặc điểm địa lý như núi non và đại dương đối với sinh mệnh chính trị của các quốc gia.

Đến đầu thế kỷ 20, khái niệm địa chính trị được phát triển thêm bởi nhà lịch sử hải quân người Mỹ Alfred Thayer Mahan (1840–1914) và nhà địa lý người Anh Halford John Mackinder (1861–1947). Cả hai ông đều cho rằng những cuộc đấu tranh địa chính trị quan trọng nhất nhằm giành vị trí bá quyền trong lịch sử đều diễn ra giữa các cường quốc hải dương và cường quốc lục địa. Điều này đã diễn ra từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với ví dụ điển hình là sự đối đầu giữa Athens, một cường quốc hải dương, và Sparta, một cường quốc lục địa, trong cuộc Chiến tranh Peloponnese. Mahan cho rằng nắm giữ một lực lượng hải quân hùng mạnh là chìa khóa để phát triển sức mạnh quốc gia. Những quốc gia kiểm soát được đại dương như nước Anh thời bấy giờ có vị thế áp đảo trong hệ thống quan hệ quốc tế. Ngược lại, năm 1939, Halford Mackinder lại lập luận trong thuyết về “vùng đất trung tâm” (Heartland theory) rằng quốc gia nào có thể kiểm soát được vùng lãnh thổ nằm giữa nước Đức và vùng Siberia sẽ có thể kiểm soát được thế giới.

Trong những năm 1930, thuyết địa chính trị được các học giả Đức cổ xúy và sử dụng rộng rãi, trong đó đặc biệt có vai trò của vị tướng về hưu kiêm giáo sư Khoa Địa lý trường Đại học Munich Karl Haushofer. Có quan hệ thân cận với Adolf Hitler, Karl Haushofer đã giúp đưa thuyết địa chính trị vào chính sách đối ngoại của chính quyền Đức Quốc xã sau khi Hitler lên nắm quyền vào năm 1933. Theo đó, chính quyền Đức Quốc xã cho rằng nước Đức cần phải mở rộng “không gian sinh tồn” (Lebensraum) để có thể đạt được khả năng tự cung tự cấp. Khái niệm này đã được chính quyền Đức Quốc xã sử dụng để biện minh cho việc xâm chiếm lãnh thổ các quốc gia láng giềng. Có thể nói chính sách của nước Đức thời kỳ này đã chịu ảnh hưởng bởi lập luận của Halford Mackinder cho rằng nước Đức sẽ vươn lên tới vị trí bá chủ toàn cầu nếu chiếm được vùng đất trung tâm Châu Âu và không bị kiềm chế bởi các cường quốc hải dương như Anh hay Mỹ.

Bất chấp những lên án đối với tư tưởng mở rộng “không gian sinh tồn” của Hitler và việc nước Đức thất bại trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, địa chính trị vẫn tiếp tục trở thành một lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm. Theo đó, một điểm chính trong tư duy địa chính trị gây nhiều chú ý liên quan đến tầm quan trọng của vị trí địa lý đối với chính sách đối ngoại của một quốc gia. Một quốc gia nằm kẹp giữa hai quốc gia lục địa sẽ có các mục tiêu chính sách đối ngoại khác xa với một đảo quốc hay một quốc gia được bao bọc xung quanh bởi các rào cản tự nhiên.

Ví dụ, nhiều người cho rằng chính sách đối ngoại mang xu hướng biệt lập của Mỹ trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai bắt nguồn từ vị trí địa lý cách biệt Châu Âu của Mỹ và việc nước này được Đại Tây Dương và Thái Bình Dương mang lại một rào cản phòng thủ tự nhiên. Đặc điểm địa lý này cũng lý giải tại sao nước Mỹ lại coi trọng phát triển lực lượng hải quân. Trong khi đó, với vị trí địa lý nằm bên lề Châu Âu và không có các đường biên giới đảm bảo an ninh, nước Nga thường xuyên có một mối quan hệ căng thẳng và khó nhọc với các cường quốc Châu Âu.

Tương tự, trong quan hệ với Trung Quốc, “lời nguyền địa lý”, hay việc Việt Nam là một nước nhỏ nằm cạnh Trung Quốc lớn mạnh gấp nhiều lần, là một yếu tố quan trọng định hình quan hệ giữa hai nước trong lịch sử. Trong khi Trung Quốc luôn tìm kiếm ảnh hưởng, sự kiểm soát hoặc phụ thuộc từ phía Việt Nam thì ngược lại, Việt Nam luôn tìm cách duy trì nền độc lập, tự chủ của mình đối với người khổng lồ phương Bắc. Chính điều này đã dẫn tới những thăng trầm, thậm chí đối đầu, trong quan hệ giữa hai quốc gia trong nhiều giai đoạn của lịch sử.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu địa chính trị cũng cho rằng vị trí địa lý có mối liên hệ với sức mạnh và sự phát triển của mỗi quốc gia. Những quốc gia nằm ở những khu vực có khí hậu ôn hòa thường có sức mạnh kinh tế và quân sự lớn hơn các quốc gia khác nhờ lợi thế nông nghiệp và khai thác tài nguyên.Trong khi đó, các quốc gia ở gần xích đạo hay có khí hậu giá lạnh thường có nền kinh tế kém phát triển hơn và phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết. Tương tự điều kiện khí hậu cũng có thể tác động tới an ninh của một quốc gia. Việc quân đội Pháp thời Napoleon hay quân đội Đức thời Hitler bị thời tiết băng giá cản bước khi tìm cách xâm lược nước Nga là những ví dụ tiêu biểu. Các đặc điểm địa hình, như sa mạc, rừng rậm hay núi non hiểm trở, cũng là những yếu tố tác động quan trọng tới chiến thuật quân sự, có thể góp phần mang lại thành công hay thất bại cho một đội quân trong các cuộc chiến tranh.

Như vậy có thể nói, yếu tố địa chính trị đóng vai trò quan trọng đối với chính sách đối ngoại mỗi quốc gia. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng địa lý chỉ là một trong rất nhiều yếu tố tác động tới lựa chọn chính sách của mỗi quốc gia nói riêng cũng như quan hệ quốc tế nói chung. Thực tế, trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của yếu tố địa chính trị dần bị suy giảm khi những đường biên giới quốc gia trở nên bị lu mờ.

Dòng chảy thương mại, đầu tư, vốn, công nghệ hay nhân lực ngày càng trở nên tự do và thay thế dần các đường biên giới chính trị và địa lý cố định trong việc tạo ra nền tảng và khuôn khổ cho cho các mối quan hệ kinh tế và chính trị giữa các quốc gia. Mặt khác, với sự trỗi dậy của các nền kinh tế Đông Á trong những thập niên vừa qua, nhiều người cho rằng đã tới lúc cần thay thế khái niệm địa chính trị bằng địa kinh tế (geoeconomics). Theo đó, những quốc gia có nền kinh tế phát triển và chính sách thương mại rộng mở trở nên quan trọng hơn so với các quốc gia có lực lượng quân đội lớn mạnh. Lợi ích kinh tế dần thay thế các tính toán về chiến lược, chính trị hay quân sự để trở thành yếu tố chính chi phối chính sách đối ngoại của các quốc gia.

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

Vượt qua bối cảnh địa chính trị phức tạp và mơ hồ của khu vực

https://nghiencuuquocte.org/2015/08/10/dia-chinh-tri-phuc-tap-va-mo-ho-cua-khu-vuc/

Nguồn: Bilahari Kausikan, “Navigating complex, ambiguous geopolitics in the region”, Today Online, 10/07/2015.

Biên dịch: Lê Hoàng Giang | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Thế giới có đang thực sự tiến tới một trật tự đa cực? Không ai có thể tiên đoán được tương lai, nhưng dựa trên những bằng chứng hiện thời, tôi nghi ngờ điều đó.

Rõ ràng là những ảo tưởng về một thế giới đơn cực xuất hiện trong thời kỳ ngay sau Chiến tranh Lạnh đã không còn. Tuy nhiên, vẫn chỉ duy nhất Hoa Kỳ mới đủ khả năng hành động chiến lược một cách nhất quán trên quy mô toàn cầu. Đồng thời, những sự kiện trong khoảng một thập niên vừa qua, đặc biệt là tại Trung Đông, đã cho thấy rằng quyền lực của Hoa Kỳ không thể tự động chuyển thành ảnh hưởng, nhất là khi được sử dụng đơn phương. Hoa Kỳ không thể tạo được hiệu quả khi hoạt động một mình, mà cần phải lập ra những liên minh như đã làm trong Chiến tranh Lạnh.

Bất chấp những hiểm họa của nó, Chiến tranh Lạnh có một cấu trúc nhất quán. Chính mối nguy hiểm từ Liên Xô đã buộc các nước không thuộc phe Xô Viết chấp nhận vị thế lãnh đạo của Mỹ mặc cho những nghi ngờ mà những nước này có thể đã có đối với các chính sách của Washington – thậm chí cả Trung Quốc sau năm 1972 thực tế cũng đã chấp nhận vai trò lãnh đạo của nước này – và qua đó đã áp đặt một dạng cấu trúc lên trên hệ thống toàn cầu. Nghịch lý của thời đại chúng ta là trong khi vẫn chỉ có Hoa Kỳ mới có khả năng lãnh đạo toàn cầu, song đã không còn nhu cầu chiến lược cấp bách nào để buộc [các nước khác] phải chấp nhận vị thế lãnh đạo của nước này nữa. Và không có nhu cầu chiến lược cấp bách rõ ràng thì cả người Mỹ, hay ít nhất là một phần đông đảo người Mỹ, giờ đây có vẻ miễn cưỡng trước việc gánh vác trọng trách lãnh đạo. Do vậy nên mới có sự rối loạn và rời rạc mà ngày nay đang tạo nên đặc tính của hệ thống quốc tế. Nhưng rời rạc không có nghĩa là đa cực.

Ai mới có khả năng tái xác lập sự gắn kết cho hệ thống toàn cầu bằng cách sử dụng quyền lực lãnh đạo toàn cầu? Châu Âu ư? Có thể trong lĩnh vực kinh tế thì đúng, khi nào họ giải quyết xong vấn đề của mình. Nhưng về mặt chiến lược, Châu Âu chẳng có ý nghĩa gì. Chính sách Đối ngoại và An ninh Chung của Châu Âu cùng lắm thì chỉ là một khát vọng, nếu không muốn nói là một trò đùa. Châu Âu đã không thể tác động lên những sự kiện diễn ra ngay trong chính biên giới của mình: Ở bán đảo Balkan giữa những năm 1990 và, gần đây hơn, tại Ukraine. Trong cả hai trường hợp này và cả những trường hợp khác, chính Hoa Kỳ đã giúp Châu Âu dập tắt ngọn lửa mà Châu Âu đã ngạo mạn châm lên nhưng không thể kiểm soát. Bài học rút ra là không thể có “quyền lực mềm” nếu không có “quyền lực cứng”.

Còn ai nữa? Khối BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi) ư? Thuật ngữ này được một giám đốc quản lý quỹ đưa ra để làm công cụ tiếp thị hòng thu thập được tiền từ những người nhẹ dạ. Bản thân thuật ngữ này đã không phải là một khái niệm địa chính trị khả thi. Và bất chấp những cuộc gặp thượng đỉnh hay những buổi họp mà khối này đã tổ chức từ khi ra đời – và bất chấp cả ngân hàng mà họ đã thành lập ra – tôi vẫn chưa tin rằng đó là một khái niệm địa chính trị khả thi. Điều gì gắn kết khối BRICS lại với nhau ngoài một cảm giác bất mãn mơ hồ với trật tự hiện có và một mong muốn có được vị thế toàn cầu hay chí ít là sự công nhận toàn cầu? Nhưng nguyên do của sự bất mãn và của những nguyện vọng của các nước trong khối này không phải là đồng nhất, thậm chí còn không hề giống nhau. Dù gì thì nguyện vọng vẫn phải tương xứng với khả năng. Ngoại trừ một trường hợp – Trung Quốc – thì khối BRICS chủ yếu chỉ có ý nghĩa như các cường quốc khu vực và chỉ có thể hành động trên quy mô toàn cầu một cách ngắt quãng. Thậm chí cả Trung Quốc vẫn còn khá mâu thuẫn về vai trò toàn cầu của mình.

Một Đông Á hai cực

Hiện tại, có lẽ sẽ là hữu ích hơn nếu nghĩ về tương lai trên góc độ các cấu trúc khu vực thay vì các cấu trúc toàn cầu. Hệ thống toàn cầu do Phương Tây định hình và chi phối trong khoảng 200 năm qua – một hệ thống mà vào thế kỷ 18 và 19 còn là đa cực và trong phần lớn thế kỷ 20 thì là hai cực – rõ ràng là đang trong thời kỳ chuyển đổi. Nhưng chuyển đổi thành cái gì thì lại không phải chuyện rõ ràng. Phỏng đoán về một tương lai không thể đoán biết là việc làm vô nghĩa. Nhưng chúng ta đã có thể thoáng trông thấy được dáng vẻ của các khu vực. Chắc chắn là khu vực của chúng ta, khu vực Đông Á, sẽ có một trật tự hai cực, được cơ cấu bởi quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc.

Điều này không có nghĩa là các nước lớn khác trong khu vực Đông Á – như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Nga – cũng như quan hệ giữa chúng với nhau và với các nước Đông Á khác là không quan trọng. Chúng có mức độ quan trọng và phức tạp của riêng mình. Nhưng xét theo khía cạnh chiến lược vĩ mô, hiện tại thì chúng chỉ là yếu tố bổ trợ cho Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc. Rõ ràng là tầm quan trọng của chúng không thể sánh ngang với của Hoa Kỳ hay Trung Quốc.

Đông Á thời kỳ hậu Thế Chiến II nhìn chung là một sản phẩm do Hoa Kỳ tạo ra. Nhưng hiện tại đã có sự đồng thuận – giữa cả các nước đồng minh và thân cận với Mỹ và cả Trung Quốc – cho rằng mặc dù sự hiện diện của Hoa Kỳ vẫn là một điều kiện cần, và quả thực là một điều kiện không thể thay thế, để đảm bảo sự ổn định cho tăng trưởng ở Đông Á, thì nó đã không còn là điều kiện đủ để đảm bảo ổn định và cẩn phải được bổ trợ – không phải thay thế – bởi một kết cấu mới nào đó. Đã có rất nhiều thử nghiệm xây dựng nên những kết cấu bổ trợ quy mô lớn và chúng đã định hình phần lớn ngoại giao đa phương Đông Á đang diễn ra hàng ngày. Nhưng chúng vẫn chỉ là những thử nghiệm mà không ai biết sẽ dẫn đến kết quả như thế nào. Nhưng dù kết quả cuối cùng là gì thì quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc chắc chắn sẽ là trụ cột của bất kỳ hệ thống Đông Á nào sẽ xuất hiện trong tương lai.

Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện đang tìm cách tạo dựng một khuôn khổ vận hành tạm thời (modus vivendi) mới với nhau và với các nước khác trong khu vực Đông Á. Nhưng sẽ phải mất nhiều thập niên thì hai nước này mới đạt được một thế cân bằng mới.

Sự phụ thuộc lẫn nhau và nghi kỵ chiến lược sâu sắc

Còn trong lúc này, Singapore, cũng giống như tất cả các nước khác trong khu vực Đông Á, sẽ phải trải qua nhiều thử thách và rắc rối không thể nào tránh khỏi khi mà sự điều chỉnh chiến lược trên quy mô như thế này đang diễn ra. Thách thức cho chúng ta là phải tự đặt mình sao cho có thể giữ được tối đa quyền tự chủ và tránh bị buộc phải đưa ra những lựa chọn khó dễ.

Như vậy không có nghĩa là tránh đưa ra lập trường về các vấn đề có ảnh hưởng đến lợi ích của chúng ta. Tránh đưa ra lập trường đồng nghĩa với từ bỏ quyền tự chủ và chúng ta phải sẵn sàng nêu rõ và bảo vệ lợi ích của chúng ta trong những vấn đề như Biển Đông, vốn đang ngày càng trở thành một dạng biểu hiện của những điều chỉnh quyền lực lớn đang diễn ra. Tuy nhiên, nó cũng đồng nghĩa với việc để ngỏ rất nhiều lựa chọn và duy trì quan hệ một cách tốt đẹp nhất có thể với các cường quốc, trong khi chúng ta đưa ra lập trường sao cho phù hợp với lợi ích quốc gia của mình.

Chúng ta có thể thích ứng được không? Cho đến nay thì chúng ta đã thích ứng khá tốt và hiện đang có quan hệ khá tốt đẹp với tất cả các cường quốc lớn. Nếu chúng ta làm hỏng [những quan hệ này] thì đó sẽ hoàn toàn là do lỗi của chính chúng ta. Chẳng có lý do gì để chúng ta không thể tiếp tục thích ứng, chừng nào còn đáp ứng được ba điều kiện sau.

Điều kiện thứ nhất là phải hiểu được chính xác những quá trình đang diễn ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sự hiểu nhầm có thể rất nguy hại. Quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc rất phức tạp, và khó có thể tóm gọn bằng một cụm từ hay câu văn duy nhất. Tính chất của quan hệ giữa hai nước này có cả sự phụ thuộc lẫn nhau sâu rộng lẫn sự nghi kỵ chiến lược sâu sắc. Sự phụ thuộc lẫn nhau không loại bỏ khả năng xảy ra xung đột, nhưng hạn chế được nó, và cho cả hai bên động lực mạnh mẽ để tránh xung đột. Hiểm họa chủ yếu là xung đột ngoài dự kiến chứ không phải chiến tranh có chủ đích. Cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều không muốn có rắc rối. Cả hai nước đều cần và muốn có quan hệ ổn định. Nhưng đồng thời, cả hai nước sẽ không dễ dàng nhượng bộ nhau, và cạnh tranh là một phần không thể thiếu và không thể tránh khỏi trong bất kỳ mối quan hệ nào giữa các cường quốc lớn. Do vậy khi Hoa Kỳ và Trung Quốc cố gắng đi đến một modus vivendi mới thì sự cạnh tranh giữa hai bên là tất yếu.

Không thể tối giản hóa động lực cạnh tranh Hoa Kỳ – Trung Quốc xuống thành một sự đối đầu giữa một “cường quốc đang trỗi dậy” và một “cường quốc đang suy tàn” hay giữa một “cường quốc nguyên trạng” và một “cường quốc xét lại”. Chắc chắn là Trung Quốc đang trỗi dậy, nhưng Hoa Kỳ chưa rõ ràng là đang suy thoái. Và giống như mọi nước lớn, cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều muốn duy trì và thay đổi hiện trạng cùng một lúc và có chọn lọc, duy trì khi thấy thuận tiện và thay đổi khi thấy có lợi cho mình. Việc tối giản hóa một hiện thực phức tạp như vậy có thể dẫn đến tính toán sai lầm trong một môi trường mà sẽ ngày càng trở nên phức tạp và khó đoán. Xin nhắc lại rằng sự rõ ràng của thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã không còn và sẽ chẳng bao giờ có thể tái xuất hiện. Trong Chiến tranh Lạnh, việc ai là bạn và ai là thù không có gì để bàn cãi, bất kể việc chúng ta ở phe nào hay kể cả nếu chúng ta giả vờ không theo phe nào. Giờ đây vấn đề đã mơ hồ hơn nhiều. Trung Quốc làm dấy lên nhiều lo ngại từ các nước lân cận. Nhưng không nước nào ở khu vực Đông Á – thậm chí cả Nhật Bản hay Việt Nam, hai nước có quan hệ rất phức tạp với Trung Quốc – coi Trung Quốc là kẻ thù. Và mặc dù Hoa Kỳ là một nước bạn bè, nhưng đó thường là một người bạn đòi hỏi rất nhiều và thường sốt sắng can dự vào chuyện người khác. Một vấn đề căn bản hơn – và rắc rối hơn đối với những ai buộc phải điều chỉnh mình cho hợp với những điều chỉnh của Hoa Kỳ và Trung Quốc – là cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều chưa biết họ thực sự muốn gì.

Trong khi cố gắng củng cố hệ thống liên minh truyền thống của mình cũng như tạo dựng những đồng minh mới, Hoa Kỳ biết rằng họ buộc phải tiến tới được một hình thức dàn xếp nào đó với Trung Quốc và tranh thủ sự giúp đỡ của nước này để duy trì được trật tự. Nhưng trật tự như thế nào? Trung Quốc muốn giành lại phần nào vai trò lịch sử của mình tại Đông Á. Nhưng phần nào đó là bao nhiêu và giành lại bằng cách nào? Trung Quốc là một điểm nút quan trọng trong nền kinh tế thế giới đến mức nếu Hoa Kỳ muốn bao vây kiềm chế Trung Quốc thì cũng chẳng khác nào tự bao vây kiềm chế chính mình. Hoa Kỳ là một thành phần chặt chẽ của khu vực Đông Á đến mức nếu Trung Quốc muốn gạt bỏ Hoa Kỳ ra khỏi khu vực này thì cũng chẳng khác nào tự gạt bỏ chính mình. Và nếu không có sự hiện diện của Hoa Kỳ, Trung Quốc rất có thể sẽ phải đối mặt với một Nhật Bản có vũ khí hạt nhân. Vậy là Hoa Kỳ chưa biết cần phải yêu cầu giúp đỡ đến mức nào và phải trả giá bao nhiêu cho sự giúp đỡ đó, còn Trung Quốc chưa biết cần phải đề nghị giúp đỡ đến mức nào và đòi hỏi cái giá bao nhiêu cho sự giúp đỡ đó.

Chúng ta phải giải quyết những vấn đề phức tạp này mà không để chúng làm cho ta chán nản hay e sợ. Không phải lúc nào cũng dễ dàng để đứng giữa cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nhưng chính do sự cạnh tranh đó mà vẫn còn có khả năng để chúng ta lèo lái và giữ lại quyền tự chủ. Nếu có sự thông đồng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì sẽ còn khó khăn hơn nhiều.

Khả năng Hoa Kỳ và Trung Quốc thông đồng với nhau không phải là hoang tưởng viển vông. Năm 1981, tại một Hội nghị Quốc tế được tổ chức tại Liên Hợp Quốc để thảo luận về việc Việt Nam đưa quân vào và chiếm đóng Campuchia, một vấn đề giữa Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đã nổi lên. Vấn đề đặt ra là điều gì sẽ xảy ra ở Campuchia sau khi Việt Nam rút quân. Trung Quốc muốn Khmer Đỏ trở lại nắm quyền. ASEAN muốn có các cuộc bầu cử để cho phép người dân Campuchia tự chọn người lãnh đạo đất nước mình. Singapore đã đặc biệt kiên quyết trong vấn đề này. Hoa Kỳ, lo ngại cho quan hệ của mình với Trung Quốc, đã gây áp lực đặc biệt lên riêng Singapore. Một vị Trợ lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đã đe dọa Bộ trưởng Ngoại giao của chúng ta rằng “sẽ có đổ máu” nếu chúng ta không chịu nhượng bộ. Chúng ta đã kiên quyết lập trường và Hoa Kỳ cuối cùng cũng đã đổi ý. Nhưng bài học đã rất rõ ràng: Khi các cường quốc lớn thỏa thuận với nhau, họ thường sẽ bắt ai đó khác phải trả giá. Những gì đã diễn ra trong quá khứ hoàn toàn có thể tái diễn, thậm chí là trong những vấn đề căng thẳng như Biển Đông, nơi mà xét về dài hạn thì chắc chắn sẽ dẫn tới một thế cân bằng đối xứng hơn về hải quân giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và buộc phải có sự hiệu chỉnh lại cách thức mà Hoa Kỳ tính toán lợi ích của mình.

Nhanh nhạy và tỉnh táo

Điều kiện thứ hai là chúng ta phải giữ được khả năng phân tích môi trường và tính toán lợi ích một cách tỉnh táo, và theo đuổi lợi ích và phản ứng trước những tiến triển một cách nhanh nhạy và sắc bén. Những yếu tố chủ chốt có thể làm suy yếu khả năng này – vốn là đặc trưng quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của chúng ta cho đến nay – đều là yếu tố nội địa.

Chính trị giữa các đảng phái đang làm rối chính sách đối ngoại. Những dấu hiệu đầu tiên – mờ nhạt nhưng không lẫn vào đâu được – đã hiện hữu rõ ràng. Một đảng đối lập đã từng cố sử dụng chính sách về Trung Đông và quan hệ với các nước láng giềng của chúng ta để thu lợi chính trị. Một số “nhà hoạt động” chống chính phủ (anti-establishment) đã cố sử dụng cách tiếp cận của chúng ta đối với quá trình hội nhập ASEAN để thổi phồng lên những lo ngại của dư luận về lao động nước ngoài.

Những nỗ lực đó đã không thành công vì chúng được thực hiện một cách vụng về và dư luận nhìn chung vẫn còn chưa quá quan tâm đến lĩnh vực chính sách đối ngoại. Nhưng chúng chắc chắn sẽ còn tiếp diễn và có lẽ sẽ còn mạnh mẽ hơn trước. Không quốc gia nào có thể cách ly hoàn toàn chính sách đối ngoại ra khỏi chính trị đối nội, và khi nền chính trị của chúng ta ngày càng trở nên “bình thường” hơn, tôi không thấy lý do nào để coi chúng ta là trường hợp ngoại lệ.

Trong khi chính trường Singapore càng trở nên đông đúc hơn, với các tổ chức xã hội dân sự và các nhóm vận động cũng như các đảng phái chính trị truyền thống tranh nhau định hình ý kiến dư luận và chính sách của chính phủ, thì những cơ hội để nước ngoài can thiệp vào cũng tăng lên gấp bội. Bất chấp họ có thể khẩn khoản thề thốt đến mức nào đi nữa, các cường quốc lớn sẽ luôn luôn cố gắng đưa cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng của họ vào trong những vấn đề quốc nội của chúng ta – bằng cách hợp pháp là thông qua ngoại giao, nhưng cũng có thể bằng những biện pháp lén lút khác. Họ đã từng làm vậy trong quá khứ, họ vẫn đang làm vậy ở hiện tại – thử hỏi vì sao các thế lực nước ngoài lại tìm cách can dự vào chuyện Roy Ngerng và Amos Yee?[1] Tôi không cho là họ làm thế chỉ vì lòng trắc ẩn. Và họ sẽ không bao giờ ngừng làm thế vì những hành vi như vậy đã ăn sâu vào trong hệ thống quốc tế giữa các quốc gia có chủ quyền rồi. Không may là, các thế lực ngoại quốc sẽ luôn tìm ra những người sẵn lòng cộng tác từ trong số đồng bào của chúng ta.

Để giái quyết hai yếu tố này, chúng ta cần phải giáo dục công chúng tốt hơn. Trông chờ rằng dư luận sẽ tiếp tục thờ ơ với lĩnh vực chính sách đối ngoại là việc làm không bền vững và không nên có, về lâu dài có thể khiến chúng ta dễ bị tổn hại trước những kẻ ba hoa và lừa gạt trong chính trường. Tranh luận về chính sách đối ngoại chưa hẳn đã là điều xấu nếu diễn ra trong phạm vi những hiểu biết chung và phi đảng phái về những gì là khả thi và bất khả thi đối với một quốc gia nhỏ bé tại Đông Nam Á thay vì tại một khu vực lành mạnh khác. Giáo dục tốt công chúng cũng là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất để chống lại những nỗ lực của nước ngoài nhằm can thiệp vào công chuyện nội bộ, mặc dù không có biện pháp nào tốt hơn là việc Cục An ninh Nội địa (ISD) phải luôn cảnh giác và hoạt động hiệu quả.

Trong những xã hội có chung lịch sử lâu dài, hiểu biết chung [của cộng đồng] thường tiến hóa một cách hữu cơ. Nhưng chúng ta mới chỉ tồn tại 50 năm; những thách thức là rất cấp bách và thời gian là thứ xa xỉ mà chúng ta không có. Chúng ta cần phải bồi dưỡng và phát triển những hiểu biết chung ấy. Nhưng không may chúng ta không làm được công việc giáo dục quốc gia một cách hiệu quả. Hệ thống giáo dục quốc gia của chúng ta phát triển tinh vi nhưng lại đầy tính nghi thức và ở tình hình hiện giờ thì có thể là bồi dưỡng được bao nhiêu tri thức thì cũng làm dấy lên bấy nhiêu hoài nghi. Chúng ta đang phải trả giá vì đã coi nhẹ việc dạy và học lịch sử của chính chúng ta trong trường học. Tôi hiểu là đang có những biện pháp được thực hiện để sửa chữa tình hình. Sẽ phải mất nhiều năm thì chúng ta mới thấy được kết quả của chúng; tuy nhiên, chúng ta đã nhận thức được vấn đề.

Nhưng điểm yếu tế nhị, nhạy cảm và có lẽ là nghiêm trọng nhất nằm trong các cơ quan công vụ của chúng ta và vấn đề này khó giải quyết hơn rất nhiều. Cách chúng ta chống trọi lại những cơn xoáy lốc của chính trị giữa các cường quốc lớn – dù một cách khôn ngoan hay thảm hại – sẽ không chỉ là hệ quả của những quyết định lớn do các cá nhân hay tổ chức nổi bật đưa ra có chủ ý tại những thời điểm và địa điểm cụ thể. Quan trọng không kém, thậm chí quan trọng hơn thế là sự tích tụ từng bước, gần như không thể nhận thấy, của nhiều hành động nhỏ trên nhiều lĩnh vực chính sách được thực hiện mà không tính đến ảnh hưởng lớn hơn được tích lũy dần của những quyết định nhỏ nhặt và có vẻ như chỉ là việc thường ngày.

Trong thế kỷ 21, chính sách đối ngoại không thể chỉ là trách nhiệm đơn nhất của Bộ Ngoại giao hay giới lãnh đạo cấp cao của bất kỳ nước nào. Nghị trình thế giới ngày nay quá rộng lớn và những ranh giới giữa chính sách đối nội và đối ngoại đang mỏng manh hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, ngoài ở Bộ Ngoại giao và một số ít các bộ ngành khác thì trong các cơ quan công vụ của chúng ta lại không có đủ những bộ óc và bản năng cần có để đương đầu với một môi trường ngoại quốc khó đoán và phức tạp hơn bao giờ hết. Những bản năng và cách tư duy như thế không thể có được nhờ dạy học; chỉ có thể có được nhờ kinh nghiệm mà thôi. Nhưng cách thức mà những cơ quan chính phủ của chúng ta (nhất là với cách tiếp cận hạn hẹp của họ) hiện đang được khái niệm hóa và cơ cấu lại – đã làm giảm giá trị của những cách tư duy đó và tạo ra những rào cản đối với việc tích lũy kinh nghiệm cần thiết. Mặc dù đã có một số biện pháp ngập ngừng được thực hiện để cải thiện tình hình, nhưng liệu chúng đã đủ chuẩn bị cho những thách thức trong tương lai hay chưa vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ, và hiện vẫn còn có sự kháng cự trong nước mạnh đến mức tôi nghi ngờ là vấn đề này còn chưa được nhận thức đúng mức.

Tầm quan trọng của sự hội nhập và vai trò trung tâm của ASEAN

Điều kiện thứ ba mà chúng ta phải đạt được nếu muốn xác định được hướng đi cho môi trường quốc tế ngày càng thách thức đang nằm trước mắt là điều kiện khu vực. ASEAN đã là một công cụ vô cùng hữu ích – và quả thực là không thể thiếu được – cho Singapore, cũng như cho toàn bộ các thành viên của nó. Bên cạnh những việc khác, ASEAN đã đảm bảo được một mức độ gắn kết ít ỏi trong một khu vực mà sự gắn kết là rất khó đạt được, đã hoạt động như một công cụ gia tăng ảnh hưởng, và đã có chức năng như một vùng đệm trước những sự thăng trầm biến động của chính trị giữa các cường quốc lớn. ASEAN không phải là một tổ chức hoàn hảo. Nhưng những hạn chế của nó xuất phát từ thực trạng của khu vực Đông Nam Á mà chúng ta không thể né tránh và buộc phải chấp nhận thực trạng này trong khi cố gắng thay đổi nó. Chỉ trích ASEAN quá mức sẽ giống như là quát mắng một con dê vì nó không phải là ngựa hoặc như trông chờ loài lợn biết bay – đều là hết sức lãng phí thời gian.

Lợi ích của Hoa Kỳ, Trung Quốc và các cường quốc lớn khác đều giao nhau ở Đông Nam Á. ASEAN đã lấy cảm hứng từ đây để đưa ra khái niệm “vai trò trung tâm” (“centrality”). Các cường quốc lớn đã rất tử tế để không tỏ ra ngần ngại công khai và đôi lúc đã coi những nền tảng do ASEAN lập nên là những phương tiện thứ cấp hữu ích để sắp đặt quan hệ với nhau hoặc với các nước khác trong khu vực. Khả năng tiếp tục đóng vai trò dù là nhỏ bé như vậy của ASEAN phụ thuộc vào khả năng hội nhập của chúng ta. Đông Nam Á là vùng đất nằm giữa hai người khổng lồ: Ấn Độ và Trung Quốc. Khi hai nền kinh tế khổng lồ này tăng trưởng, nếu ASEAN không hội nhập thì vùng đất nhỏ bé ở giữa đó hoặc là sẽ bị xâu xé bởi lực hấp dẫn từ hai người khổng lồ hoặc là sẽ bị nghiền nát thành hư vô khi hai người khổng lồ đó tiếp tục mở rộng và chiếm hữu toàn bộ không gian chính trị và kinh tế.

Trọng tâm của sự hội nhập phải là kinh tế. Đến cuối năm nay, chúng ta sẽ hoàn thành được một giai đoạn của quá trình hội nhập kinh tế. Những mục tiêu của chúng ta trong giai đoạn này là vừa phải và mặc dù chúng ta sẽ không hoàn thành được tất cả các mục tiêu đó, song chúng ta sẽ hoàn thành được đủ mục tiêu để tuyên bố một cách thỏa đáng là đã thành công trong giai đoạn này. Nhưng chúng ta không thể dừng lại, bởi vì tình thế địa chính trị của chúng ta sẽ không thay đổi. Sau đó, chúng ta sẽ phải đưa ra những quyết định khó khăn hơn trong bối cảnh môi trường khu vực phức tạp hơn và quan trọng hơn là tại một thời điểm mà ở một số nước thành viên chủ chốt của ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển đổi chính trị nội bộ mà trong một số trường hợp có bản chất hệ thống. Liệu chúng ta có đạt được đồng thuận về một nghị trình hội nhập hậu 2015 thỏa đáng hay không vẫn là điều cần phải có thời gian mới thấy được rõ.

Bilahari Kausikan là Đại sứ Lưu động, Cố vấn Chính sách và cựu Thư ký Thường trực của Bộ Ngoại giao Singapore. Bài viết là nội dung cuộc thảo luận chuyên đề “Địa Chính trị: Chuẩn bị cho Trật tự Đa cực” diễn ra cùng với hội thảo “Singapore sau 50 Năm: Những gì đang ở trước mắt” do Viện Nghiên cứu Chính sách Singapore tổ chức.

————————-

[1] Roy Ngerng là một blogger bị Thủ tướng Lý Hiển Long kiện ra tòa vì đã “bôi nhọ” uy tín của ông, trong khi Amos Yee đã bị bắt và tuyên án vì đăng một video clip xúc phạm cố thủ tướng Lý Quang Diệu và có những bình luận chống lại các tín đồ Thiên chúa giáo Singapore (NBT).

http://cks.inas.gov.vn/index.php?newsid=623

 

KHỦNG HOẢNG TRÊN BÁN ĐẢO HÀN VÀ CƠ HỘI TÁI THIẾT CỦA HÀN QUỐC

Đăng ngày: 13-04-2017, 17:37

 

Bất ổn chính trị và những thách thức về địa chính trị khu vực đang làm rung chuyển Bán đảo Hàn. Các dẫn chứng có thể kể đến là hàng loạt các cuộc thử nghiệm tên lửa và vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, những đòn trừng phạt không chính thức của Trung Quốc đối với Hàn Quốc liên quan đến việc triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD), Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye bị luận tội, phế truất và bắt giam, … đang đẩy khu vực này vào một chu trình nguy hiểm, có thể làm ảnh hưởng tới hòa bình và thịnh vượng của Hàn Quốc. Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, những khủng hoảng này cũng là một cơ hội để Hàn Quốc tái thiết; bởi vậy những động thái trong 6 tháng tới, đặc biệt là kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống ngày 09/05, là vô cùng quan trọng đối với tương lai của Hàn Quốc.

 

1. Triều Tiên gia tăng khiêu khích quân sự

Việc Triều Tiên liên tục thử nghiệm tên lửa và vũ khí hạt nhân đã đặt ra mối nguy thực sự, không chỉ với riêng nước láng giềng Hàn Quốc, mà còn cả với Nhật Bản và Hoa Kỳ (đặc biệt là với các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật và Guam). Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson đã trả lời báo chí Tokyo rằng: “Tôi nghĩ điều quan trọng là phải thừa nhận rằng: những nỗ lực chính trị và ngoại giao trong 20 năm qua để phi hạt nhân hóa ở Triều Tiên đã thất bại”. Hiện tại, tất cả các bên liên quan, bao gồm cả Trung Quốc, cần phải đánh giá một cách khôn ngoan về nguy cơ sắp tới đến từ Triều Tiên và nỗ lực không ngừng để giải quyết khủng hoảng.

Trước tình thế này, Chính phủ Hoa Kỳ và Hàn Quốc đã quyết tâm triển khai THAAD nhằm đối phó với mối đe dọa tên lửa đến từ Triều Tiên. Tuy nhiên, động thái này vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của Trung Quốc vì họ cho rằng hệ thống này sẽ là một mối đe dọa với Đại lục. Để trả đũa, Bắc Kinh đã khuyến khích người tiêu dùng tẩy chay các ngôi sao K-Pop, các chương trình truyền hình, du lịch và các doanh nghiệp của Hàn Quốc trong quá trình ban đầu triển khai THAAD. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới Hàn Quốc bởi hiện nay, Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn nhất của nước này. Tuy nhiên, chiến thuật này cũng có thể phản tác dụng vì Hàn Quốc không thích bị coi như  “một người em trai” ở dưới cơ.

Liên quan tới việc triển khai THAAD, một tình thế tiến thoái lưỡng nan có thể xảy vào thời kỳ Hậu bầu cử của Hàn Quốc, nếu Tổng thống mới của Hàn Quốc là người đến từ phe đối lập, có xu hướng chống lại THAAD. Ông Moon Jae-in (ngôi sao sáng trong cuộc chạy đua vào Nhà Xanh của phe đối lập, người đang dẫn đầu trong các cuộc trưng cầu dân ý gần đây) có xu hướng tiếp tục theo đuổi Chính sách Ánh Dương và thể hiện sự hoài nghi đối với hệ thống THAAD, cũng như vai trò tổng thể của quân đội Hoa Kỳ tại Hàn Quốc. Như vậy, tùy thuộc vào kết quả, cuộc bầu cử Tổng thống ngày 09/05 có thể gây ảnh hưởng không mấy tích cực cho kế hoạch quân sự của Hoa Kỳ ở Bán đảo Hàn.

 

2. Khủng hoảng tại Hàn Quốc

Khủng hoảng chính trị đang bao trùm Hàn Quốc. Vào ngày 10/3, Tổng thống Park Geun-hye đã bị phế truất sau phán quyết của Tòa án Hiến pháp và đến rạng sáng ngày 31/3 vừa qua, bà đã bị Viện Kiểm sát bắt giam[1] theo lệnh của Tòa án Trung ương Seoul. Hiện bà Park đang phải đối mặt với 13 cáo buộc, bao gồm các nghi ngờ về: nhận hối lộ, lợi dụng chức quyền, tiết lộ các tài liệu mật của quốc gia, chỉ thị việc lập danh sách đen giới văn hóa, ...

“Cú ngã ngựa” lịch sử trong sự nghiệp chính trị này của bà Park một phần là hệ quả từ sự phẫn nộ của người dân, đã tạo áp lực mạnh mẽ lên Quốc hội và phán quyết của Tòa án Hiến pháp. Điều này phần nào cho thấy Hàn Quốc hiện nay đang phải đối mặt với những động thái rất khác biệt của lớp trẻ - những người lớn lên trong một xã hội an toàn, thịnh vượng, không còn bị che phủ bởi cái bóng của Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953 và thời kỳ tái xây dựng đầy gian nan của những năm 1960-1970 nhưng vẫn gặp những vấn đề khủng hoảng trong thế hệ mình. Bằng nhiều cách, trong đó có việc tham gia những cuộc biểu tình thắp nến không biết mệt mỏi, những người trẻ tuổi này đã thể hiện sự tức giận trước cái mà họ gọi là “sự cấu kết chặt chẽ” giữa giới tinh hoa chính trị và các tập đoàn tài phiệt Hàn Quốc. Tâm điểm của sự tức giận chính là cảm giác “bị tước đoạt”: họ nói về những khó khăn trong tài chính, những băn khoăn về số mệnh khi sinh ra đã không được “ngậm thìa vàng”, …

Bất bình đẳng là một sản phẩm phụ của sự thành công về kinh tế của Hàn Quốc. Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, quốc gia này đã thoát khỏi đói nghèo và trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á, thông qua việc mở rộng không ngừng các tập đoàn gia đình trị (chaebol), như: Samsung, Hyundai Motor, SK, ...

Chaebol, với sự nâng đỡ của chính phủ, đã kìm hãm sự cạnh tranh trong nước và giữ cho sự giàu có trở nên “nhỏ giọt”. Theo nghiên cứu của Chaebul.com, 10 tập đoàn lớn nhất - tạo ra doanh thu tương đương 2/3 tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc - chỉ sử dụng 3,6% lực lượng lao động trên toàn quốc vào năm 2015.

Chaebol đang tuyển dụng thêm nhân viên hợp đồng và đưa sản xuất ra nước ngoài. Trong khi đó, hàng triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc lại phải vật lộn để thu hút nhân tài, do họ chỉ có thể cung cấp được mức lương thấp hơn và địa vị xã hội kém hơn so với các chaebol.

Sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã đẩy các ngành công nghiệp then chốt, như đóng tàu vào tình trạng nguy kịch, tấn công vào các công ty như Hyundai Heavy Industries. Trong khi đó, các hãng điện tử như Samsung, LG đang mất dần thị phần vào tay các đối thủ Trung Quốc. Kết quả là hơn 10% người tìm việc dưới 30 tuổi không có công việc chính thức ở bất kỳ công ty nào.

Điều này cho thấy công thức tăng trưởng định hướng xuất khẩu do Chaebol dẫn đầu đã đạt đến giới hạn. Theo dự kiến, nền kinh tế Hàn Quốc ​​sẽ mở rộng chưa đầy 3% vào năm 2017, dân số được dự báo sẽ bắt đầu giảm trong vòng chưa đầy 10 năm, làm tăng nguy cơ trì trệ kiểu Nhật Bản. Để tránh khỏi “số phận” này, việc tăng cường hơn nữa mức tiêu dùng trong nước là rất quan trọng nhưng điều này đòi hỏi Chính phủ mới phải tạo ra nhiều việc làm và sự hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp nhỏ.

Với tình thế hiện nay, các ứng cử viên Tổng thống nhiệm kỳ sắp tới cam kết sẽ khôi phục lại cơ cấu kinh tế nếu họ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử. Trong đó, ông Moon Jae-in hứa hẹn sẽ có hành động để khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ, cứng rắn hơn với các doanh nghiệp hàng đầu và cải thiện triển vọng việc làm cho thanh niên.

Thời điểm này có thể chính là cơ hội để Hàn Quốc tái thiết, bởi cuộc khủng hoảng chính trị đã đặt ra những vấn đề cơ bản của một nền kinh tế xây dựng xung quanh một vài tập đoàn lớn, từ đó, đặt ra yêu cầu cải cách thực sự - và môi trường chính trị hiện nay đang tạo cơ hội cho sự thay đổi.

 

Lương Hồng Hạnh (tổng thuật) – Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

http://world.kbs.co.kr/vietnamese/news/news_Dm_detail.htm?No=34140&id=Dm

http://www.koreatimes.co.kr/www/opinion/2017/03/197_226310.html

http://www.reuters.com/article/uk-southkorea-politics-breakingviews-idUSKBN1710B2

 


[1] Bà Park đã trở thành cựu Tổng thống thứ ba của Hàn Quốc bị Viện kiểm sát bắt giam, sau Tổng thống Chun Doo-hwan và Tổng thống Roh Tae-woo.

 

http://cks.inas.gov.vn/index.php?newsid=690

TƯƠNG LAI CƯỜNG QUỐC CHÍP BÁN DẪN CỦA HÀN QUỐC

Đăng ngày: 31-08-2022, 14:50

Tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 trong hơn hai năm qua đã dẫn đến nhiều thay đổi trong mạng lưới cung cấp chíp bán dẫn trên thế giới. Hàn Quốc, quốc gia sở hữu hai công ty sản xuất chíp bán dẫn lớn trên toàn cầu là Samsung và SK Hynix cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng. Trong thị trường bán dẫn bộ nhớ, Samsung Electronics và SK Hynix đang đứng ở vị thứ nhất và thứ hai thế giới[1]. Nhằm đảm bảo lợi thế dẫn đầu trong chuỗi cung ứng chíp bán dẫn toàn cầu, ngày 13/5/2021, Hàn Quốc đã công bố Báo cáo chiến lược chíp bán dẫn Hàn Quốc tại tại nhà máy của hãng điện tử Samsung ở thành phố Pyeongtaek (tỉnh Gyeonggi). Theo đó, chính phủ Hàn Quốc hy vọng phối hợp với khối tư nhân xây dựng “Vành đai chíp bán dẫn Hàn Quốc”.

Về cơ bản, chíp bán dẫn gồm chíp nhớ và chíp bán dẫn hệ thống (không có đặc tính nhớ). Tuy Hàn Quốc dẫn đầu về mảng chíp nhớ song mảng này không thu được nhiều lợi nhuận và luôn nhạy cảm trước các biến động về kinh tế, chính trị. Do vậy, nếu Hàn Quốc thành công trong việc xây dựng chuỗi cung ứng chíp bán dẫn hàng đầu thế giới trong biên giới quốc gia, xuất khẩu chíp bán dẫn hàng năm có thể tăng lên 200 tỷ USD, tăng 100% so với hiện nay và tạo ra thêm 270.000 việc làm.

Đối sách của chính phủ Hàn Quốc

Ngày 21/7/2022, chính phủ Hàn Quốc chính thức công bố “Chiến lược trở thành siêu cường quốc chíp bán dẫn”, trong đó, tập trung hỗ trợ và bồi dưỡng nhân tài cho các doanh nghiệp chíp bán dẫn.

- Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng

Về phía chính phủ, trước tiên, chính phủ sẽ trích ngân sách hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, nước cho khu phức hợp chíp bán dẫn quy mô lớn đang được xây dựng ở thành phố Yongin và thành phố Pyeongtaek, tỉnh Gyeonggi. Bên cạnh đó, chính phủ Hàn Quốc sẽ nâng tối đa gấp 1,4 lần về hệ số sử dụng đất  tại khu phức hợp chíp bán dẫn[2]. Ngoài ra, chính phủ hỗ trợ hoạt động hành chính như xử lý nhanh các loại giấy phép cho doanh nghiệp trong trường hợp không có vướng mắc nào nghiêm trọng, hỗ trợ thuế cho các doanh nghiệp.

- Hỗ trợ đào tạo nhân lực

Liên quan tới bồi dưỡng nhân tài, năm 2022, chính phủ Hàn Quốc sẽ phối hợp với khối doanh nghiệp, thành lập nên “Học viện chíp bán dẫn” để có thể đào tạo hơn 3.600 nhân lực trong vòng 5 năm tới. Kế hoạch năm 2023, chính phủ Hàn Quốc sẽ chỉ định thêm khoảng 20 trường chuyên đào tạo hệ cao học nhân tài chíp bán dẫn cho tới năm 2026. Đồng thời, chính phủ sẽ hỗ trợ chi phí mua sắm vật tư máy móc cũng như chi phí tuyển dụng giáo sư.

Nhằm hưởng ứng chính sách của chính phủ trong vấn đề này, nhóm đặc biệt liên ngành về nuôi dưỡng nhân lực chíp bán dẫn, với sự tham gia của ba Bộ (Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học, công nghệ thông tin và truyền thông, Bộ Công nghiệp, thương mại và tài nguyên Hàn Quốc) đã công bố “Phương án nuôi dưỡng nhân lực lĩnh vực chíp bán dẫn” ngày 19/7/2022. Để có khoảng 127.000 nhân lực trong lĩnh vực chíp bán dẫn tới năm 2031, chính phủ có kế hoạch tăng chỉ tiêu tuyển sinh khoa chíp bán dẫn ở bậc đại học[3]. Theo đó, các trường được nới lỏng quy chế để có thể tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Trước đây, nếu muốn tăng chỉ tiêu tuyển sinh, trường phải đáp ứng đủ 4 điều kiện: số lượng giảng viên, nhân viên, diện tích khuôn viên trường và tài sản dùng cho mục đích sinh lời (đảm bảo trường tư không bị phá sản). Tuy nhiên, đối với các khoa liên quan đến chíp bán dẫn, chỉ cần thỏa mãn một yêu cầu duy nhất về giảng viên, là có thể tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Tổng quy mô tăng tuyển sinh là 5.700 sinh viên mỗi năm, cho tới năm 2027. Chỉ tiêu tăng tuyển sinh lần lượt là 1.600 (trường dạy nghề); 1.000 (trường cao đẳng); 2.000 (trường đại học) và 1.100 (hệ cao học). Nếu việc tăng chỉ tiêu tuyển sinh hoàn tất, dự tính sẽ đào tạo được khoảng 45.000 nhân lực chíp bán dẫn. Hiện tại, đại học Yonsei và đại học Hàn Quốc đã đi đầu khi thành lập Khoa Chíp bán dẫn năm 2021. Trở thành sinh viên của Khoa Chíp bán dẫn, sinh viên không những có thể nhận được hỗ trợ học phí từ hai doanh nghiệp sản xuất chíp bán dẫn là Samsung và SK Hynix mà còn được ưu tiên khi nhận việc tại các doanh nghiệp chíp bán dẫn[4].

Về phía các Bộ, các Bộ sẽ vận hành khoảng 30 dự án đào tạo, thúc đẩy chương trình “Trường học chia sẻ kỹ thuật số” để những sinh viên không theo ngành chíp bán dẫn, vẫn có thể được đào tạo về lĩnh vực này. Ước tính, thông qua 30 dự án của ba bộ, sẽ bổ sung khoảng 105.000 nhân lực cho ngành chíp bán dẫn.

Cũng trong phương án này, chính phủ cũng sẽ linh hoạt tư cách giảng dạy của giáo sư kiêm nhiệm và giáo sư mời giảng để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực đào tạo về chíp bán dẫn. Theo đó, mỗi trường đại học có quyền sửa đổi các quy định để có thể thuê các chuyên gia trong lĩnh vực khác nhau làm nhân sự giảng dạy, xúc tiến dự án “Nhóm hỗ trợ đào tạo chíp bán dẫn” để xây dựng, hỗ trợ bài giảng cho các chuyên gia.

Hiện tại, chính phủ Hàn Quốc có kế hoạch thành lập cơ quan theo luật định nhằm cải thiện các quy định gây trở ngại cho hoạt động của các trường sau đại học, hỗ trợ ngân sách xây dựng cơ sở hạ tầng giáo dục. Cùng với đó, Luật về đại học quốc gia (tên tạm thời) với mục đích cân bằng phát triển trường đại học quốc gia giữa các địa phương, tăng cường hỗ trợ tài chính để các trường này có thể đóng vai trò nuôi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao sẽ được ban hành.

- Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển

Về hỗ trợ chi phí nghiên cứu để phát triển “chíp bán dẫn thông minh thế hệ mới”, chính phủ Hàn Quốc dự kiến hỗ trợ khoảng 1,07 tỷ USD (tương đương 1.400 tỷ won) cho tới năm 2029[5].

- Thiết lập cơ sở pháp lý

Ngày 4/8/2022, “Luật biện pháp đặc biệt về tăng cường năng lực cạnh tranh và bảo hộ ngành công nghiệp chiến lược công nghệ cao quốc gia”, hay “Luật đặc biệt về chíp bán dẫn” chính thức có hiệu lực. Căn cứ theo luật mới, chính phủ Hàn Quốc sẽ thực hiện các hỗ trợ tương tự như đã được đề cập trong Chiến lược trở thành siêu cường quốc chíp bán dẫn. Cụ thể, chính phủ sẽ tăng cường hỗ trợ mạnh mẽ về đầu tư cho doanh nghiệp trong ngành chíp bán dẫn, như chỉ định công nghiệp đặc thù. Theo đó, nếu được chỉ định là khu công nghiệp đặc thù, thời gian cấp phép các giấy tờ liên quan sẽ được rút ngắn, từ 45 đến 90 ngày. Bên cạnh đó, nhà nước sẽ hỗ  trợ chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, điện, nước, gas, cũng như cơ sở xử lý rác thải. Trong trường hợp có đề nghị cải cách quy chế từ doanh nghiệp, chính phủ có thời hạn xem xét và trả lời trong vòng 15 ngày[6].

Theo Luật đặc biệt về chíp bán dẫn, chính phủ sẽ lập ra “Ủy ban công nghiệp chiến lược công nghệ cao quốc gia”, thảo luận với các ban ngành hữu quan để tổ chức cuộc họp đầu tiên của Ủy ban vào tháng 9 hoặc tháng 10 năm 2022 dưới sự chủ trì của Thủ tướng. Đây sẽ là cơ quan ra quyết định cao nhất về chính sách ngành công nghiệp chiến lược quốc gia.

Trước đó, ngày 24/7/2022, Cục Sở hữu trí tuệ (KIPO) thông báo hỗ trợ toàn diện trong việc ưu tiên thẩm định với những bằng sáng chế liên quan đến chíp bán dẫn. Theo số liệu thống kê, số bằng sáng chế ở lĩnh vực chíp bán dẫn trong nước đang có xu hướng tăng bình quân 3,2% mỗi năm, từ 39.039 bằng sáng chế năm 2019 lên 39.913 bằng sáng chế vào năm 2020 và 41.636 bằng sáng chế trong năm 2021[7]. Để phù hợp với chủ trương hỗ trợ ngành công nghiệp chíp bán dẫn của chính phủ, KIPO sẽ ưu tiên thẩm định nhằm rút ngắn thời gian thẩm định cấp bằng sáng chế, giảm từ 12,7 tháng như hiện nay còn khoảng 2,5 tháng. Song hành với đó, dựa trên thông tin người phát minh, KIPO sẽ tiến hành phân tích về nhân lực nòng cốt theo từng lĩnh vực, sự thay đổi về độ tuổi của người phát minh, để đề ra nhưng lĩnh vực ưu tiên cần bồi dưỡng nhân tài trong thời gian tới, cũng như phòng ngừa rò rỉ công nghệ nếu những người này ra nước ngoài làm việc.

Tiềm lực của các doanh nghiệp

Ngày 26/7/2022, hãng điện tử Samsung đã thành công sản xuất và gia công chíp bán dẫn (foundry), áp dụng quy trình 3 nm (1 nm bằng 1 phần 1 tỷ mét) đầu tiên trên thế giới. Như vậy, Samsung đã tạo được chỗ đứng để vươn lên vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực foundry, vượt qua hãng sản xuất chíp bán dẫn hàng đầu TSMC Đài Loan. Cùng ngày, hãng đã tổ chức lễ xuất xưởng chíp bán dẫn 3 nm áp dụng công nghệ bóng bán dẫn GAA (Gate All Around) thế hệ mới tại dây chuyền V1 (sử dụng siêu tia cực tím EUV) thuộc cơ sở ở thành phố Hwaseong (tỉnh Gyeonggi). Điểm ưu việt của quy trình 3 nm GAA thế hệ 1 giúp giảm 45% điện năng, cải thiện hiệu suất 23% và giảm 16% diện tích so với quy trình FinFET 5 nm hiện nay. Hãng bắt đầu nghiên cứu cấu trúc bóng bán dẫn GAA vào đầu những năm 2000, áp dụng vào quy trình 3 nm từ năm 2017 và thành công trong việc sản xuất đại trà vào năm nay[8].

Tại SK Hynix, ngày 3/8/2022, công ty đã ra mắt mẫu chíp nhớ NAND Flash 4D TLC (Triple-level Cell) dung lượng 512 Gb (gigabit) 238 lớp tại sự kiện “Flash Memory Summit” ở thành phố Santa Clare (Mỹ), và sẽ bắt đầu sản xuất đại trà từ nửa đầu năm 2023. Đây là một trong những bước tiến đáng kể của hàng SK Hynix khi hãng đã phát triển thành công loại chíp thế hệ mới chỉ trong vòng một năm 7 tháng kể từ sau khi công bố chíp NAND 176 lớp vào tháng 12/2020. Đặc biệt, NAND Flash là loại chíp nhớ có thể lưu trữ dữ liệu ngay cả khi nguồn điện bị ngắt, trong đó không gian lưu trữ dữ liệu được xếp thành tầng, nên công nghệ xếp tầng được đánh giá là thước đo công nghệ với loại chíp này.
Công nghệ xếp tầng là công nghệ xếp thẳng đứng các lớp cell giống như một tòa nhà cao tầng, nhằm tăng dung lượng dữ liệu. Đây là công nghệ cao cần thiết để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh chíp nhớ NAND Flash.
Loại chíp 238 lớp lần này không chỉ nâng cao về số lớp mà còn được chế tạo với kích thước nhỏ nhất thế giới, trong khi hiệu suất được nâng lên 34% so với loại 176 lớp trước đó. Tốc độ truyền dữ liệu của loại 238 lớp là 2,4 GB/giây, nhanh hơn 50% so với loại trước, và tiết kiệm 21% năng lượng khi xử lý dữ liệu.

Không chỉ đạt những tiến bộ trong sản xuất, hai doanh nghiệp lớn của Hàn Quốc đang xúc tiến kế hoạch khởi công nhà máy sản xuất chíp bán dẫn ở Mỹ. Cụ thể, hãng SK Hynix đã lựa chọn địa điểm gần trường đại học đặt nhà máy đóng góp chíp bán dẫn và sẽ khởi công xây dựng vào quý I năm 2023. Nếu đi vào hoạt động, nhà máy sẽ sản xuất đại trà từ năm 2025 và tạo ra việc làm cho khoảng 1.000 lao động. Trước đó, ngày 26/7/2022, trong cuộc hội đàm trực tiếp với Tổng thống Mỹ, chủ tịch tập đoàn SK Chey Tae-won cũng trình bày kế hoạch đầu tư mới 22 tỷ USD vào Mỹ và chia sẻ ý tưởng xây dựng cơ sở đóng góp chíp nhớ tiên tiến. Theo đó, SK Hynix sẽ đầu tư 15 tỷ USD vào sản xuất đóng gói tiên tiến (Advanced Packaging) và nghiên cứu phát triển chíp bán dẫn[9].

Trong đó, theo Thời báo phố Wall (WSJ) (Mỹ) ngày 21/7/2022, Samsung đã  nộp đơn đăng ký sẽ đầu tư 167,6 tỷ USD vào 9 nhà máy mới ở Taylor và 24,5 tỷ USD vào 2 nhà máy mới ở Austin[10]. Hiện tại, Samsung đang vận hành hai nhà máy chíp bán dẫn ở Austin và đang xây dựng một nhà máy sản xuất ủy thác, đóng gói chíp (còn gọi là Foundry) ở Taylor với quy mô đầu tư 17 tỷ USD. Hãng kỳ vọng sẽ tạo ra 10.000 việc làm với tổng số vốn đầu tư là 192,1 tỷ USD, một số nhà máy hoàn công và bắt đầu hoạt động vào năm 2034, các nhà máy còn lại sẽ bắt đầu sản xuất trong vòng 10 năm sau đó. Mặc dù, trên phương tiện thông tin đại chúng, thông tin hai công ty lớn của Hàn Quốc có kế hoạch xây dựng nhà máy sản xuất chíp bán dẫn ở Mỹ được công bố, nhưng khi trả lời báo chí nước ngoài về dự định đầu tư trên, phía Samsung cũng như SK Hynix, hai công ty đều có một câu trả lời chung: chưa có quyết định cụ thể về các quyết định trên.

Tham gia Liên minh chíp bán dẫn

Từ tháng 7/2022, Washington đã công bố “Liên minh Chip 4” là sáng kiến nhằm mở rộng và tăng cường hợp tác chíp bán dẫn giữa 4 nước: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Tuy nhiên, cho đến nay, Hàn Quốc vẫn bày tỏ lập trường thận trọng về việc tham gia liên minh này. Nguyên do là trong số 128 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu chíp bán dẫn của Hàn Quốc năm 2021, khoảng 60% xuất khẩu là sang Trung Quốc và Hồng Kông. Do vậy, nếu tham gia liên minh không những vấp phải những chỉ trích từ Trung Quốc, khiến Seoul gặp nhiều bất lợi trong đàm phán về chuỗi cung cứng với Trung Quốc, mà còn tạo nên căng thẳng cho hai doanh nghiệp Hàn Quốc sản xuất chíp bán dẫn tại Trung Quốc là điện tử Samsung và SK Hynix.

Mặt khác, hiện tại, cụm từ “liên minh” vốn mang ý nghĩa là hợp tác một cách đầy đủ, dứt khoát, trong khi Hàn Quốc vẫn đang trao đổi chặt chẽ với Mỹ thông qua nhiều kênh tham vấn đa dạng. Do vậy, chính phủ Hàn Quốc sử dụng từ “đối thoại hợp tác chuỗi cung ứng chíp bán dẫn”, phủ nhận ý đồ “liên minh” mang tính chất “bài trừ” một đối tượng nào đó của Chip 4[11]. Chính vì thế, trong bối cảnh căng thẳng Mỹ - Trung liên quan tới chíp bán dẫn ngày càng gia tăng, việc Hàn Quốc tham gia đề xuất sáng kiến nói trên vẫn chưa ngã ngũ.

Liên tục từ tháng 5/2021 đến nay, chính phủ cũng như các doanh nghiệp Hàn Quốc đã tích cực triển khai những bước nhằm giành lợi thế trong chuỗi cung ứng chíp toàn cầu. Các chiến lược, phương án tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo đảm nguồn nhân lực…lần lượt được thông qua và công bố rộng rãi. Bên cạnh đó, các tín hiệu tích cực từ doanh nghiệp như Samsung, SK Hynix cũng ngày càng khẳng định hướng đi đúng đắn của chính phủ Hàn Quốc, cũng như đồng lòng của doanh nghiệp trong tập trung phát triển lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh chiến tranh Nga – Ukraina vẫn còn tiếp diễn, nền kinh tế Trung Quốc gặp nhiều khó khăn do chính sách Zero Covid, tình trạng thiếu chíp bán dẫn trên toàn cầu chưa kết thúc, những thách thức từ nền kinh tế Hàn Quốc hiện tại …việc quyết định tham gia hay không tham gia Liên minh Chip 4 không hề dễ dàng. Vì vậy, Hàn Quốc còn chặng đường dài chông gai phía trước để hoàn tất mục tiêu trở thành siêu cường chíp bán dẫn của Hàn Quốc trong tương lai.

 

Tống Thùy Linh

Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc, Triều Tiên

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tổng hợp từ nguồn:

(1) 박대웅 (2022), “[반도체 톺아보기] 반도체는 '산업의 '일까” (Hãy nhìn vào chíp bán dẫn Vì sao chíp bán dẫn là yếu tố cốt lõi của ngành công nghiệp), https://www.opinionnews.co.kr/news/articleView.html?idxno=68807

(2) KBS World (2022), “Hàn Quốc công bố chiến lược  trở thành siêu cường quốc chíp bán dẫn”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55198

(4) 황정수 (2019), “산업의 ' 반도체, 4 산업시대에 중요성 커져” (Chíp bán dẫn, nhân tố chủ chốt của ngành công nghiệp đang trở nên quan trọng hơn trong cách mạng công nghiệp lần thứ 4), https://sgsg.hankyung.com/article/2019051009611

(3) (5) KBS World (2022), “Hàn Quốc công bố phương án nuôi dưỡng 150.000 nhân lực chíp bán dẫn trong tương lai”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55184

(6) KBS World (2022), “Thực thi Luật nâng cao năng lực ngành công nghiệp chíp bán dẫn từ 4/8”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55376

(7) KBS World (2022), “Rút ngắn thời gian thẩm định bằng sáng chế lĩnh vực chíp bán dẫn”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55240

(8) KBS World (2022), “Samsung chính thức sản xuất đại trà chíp bán dẫn 3nm đầu tiên trên thế giới”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55244

(9) KBS World (2022), “Reuters: SK Hynix khởi công nhà máy đóng gói chíp bán dẫn tại Mỹ vào quý I/2023”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55473

(10) KBS World (2022), “Samsung có kế hoạch xây dựng mới 11 nhà máy chíp bán dẫn tại bang Texas (Mỹ) trong vòng 20 năm”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55210

(11) KBS World (2022), “Seoul sẽ tham dự cuộc họp sơ bộ liên minh chíp bán dẫn “Chip 4”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55406

 


[1] 박대웅(2022), “[반도체 톺아보기] 반도체는 '산업의 '일까”, https://www.opinionnews.co.kr/news/articleView.html?idxno=68807

[2] KBS World (2022), “Hàn Quốc công bố chiến lược  trở thành siêu cường quốc chíp bán dẫn”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55198

[3] KBS World (2022), “Hàn Quốc công bố phương án nuôi dưỡng 150.000 nhân lực chíp bán dẫn trong tương lai”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55184

[4]황정수 (2019), “'산업의 ' 반도체, 4 산업시대에 중요성 커져”, https://sgsg.hankyung.com/article/2019051009611

[5] KBS World (2022), “Hàn Quốc công bố phương án nuôi dưỡng 150.000 nhân lực chíp bán dẫn trong tương lai”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55184

[6] KBS World (2022), “Thực thi Luật nâng cao năng lực ngành công nghiệp chíp bán dẫn từ 4/8”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55376

[7] KBS World (2022), “Rút ngắn thời gian thẩm định bằng sáng chế lĩnh vực chíp bán dẫn”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55240

[8] KBS World (2022), “Samsung chính thức sản xuất đại trà chíp bán dẫn 3nm đầu tiên trên thế giới”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55244

[9] KBS World (2022), “Reuters: SK Hynix khởi công nhà máy đóng gói chíp bán dẫn tại Mỹ vào quý I/2023”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55473

[10] KBS World (2022), “Samsung có kế hoạch xây dựng mới 11 nhà máy chíp bán dẫn tại bang Texas (Mỹ) trong vòng 20 năm”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55210

[11] KBS World (2022), “Seoul sẽ tham dự cuộc họp sơ bộ liên minh chíp bán dẫn “Chip 4”, http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=55406

 

http://cks.inas.gov.vn/index.php?newsid=378

NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT TRÊN BÁN ĐẢO HÀN TRONG NĂM 2013

Đăng ngày: 15-01-2014, 20:12

Trong một nghĩa nào đó, sự bắt đầu các sự kiện năm 2013 trên bán đảo Hàn được tính từ tháng 12/2012. Trong những ngày hướng tới bầu cử tổng thống của Hàn Quốc, Triều Tiên đưa thành công vệ tinh đầu tiên vào quỹ đạo, bất chấp lệnh cấm của Liên Hợp Quốc về các vụ thử tên lửa tầm xa. Chưa đầy một tuần sau đó, Hàn Quốc bầu Park Geun-hye là nữ tổng thống đầu tiên.

Sau đây là một số sự kiện quan trọng diễn ra trên bán đảo Hàn trong năm 2013.

1. Một cách tiếp cận mới trong chính sách đối ngoại

Mặc dù đến từ cùng một đảng như chủ tịch Lee Myung-bak, chúng tôi kỳ vọng ​​Park Geun-hye chú trọng tới chính sách đối ngoại. Đây là một vấn đề mà chúng tôi có kết quả tổng hợp. Trong khi thuật ngữ " Hàn Quốc Toàn cầu " đã được như mong đợi, thì vẫn có thể là quá sớm để nói làm thế nào mà Hàn Quốc có thể điều chỉnh chính sách ngoại giao quyền lực hạng trung và chính sách đối ngoại rộng lớn hơn. Nhiều chính sách đối ngoại của Tổng thống Park trong năm đầu tiên của bà đã tập trung vào đối phó với Triều Tiên do tính cấp bách của nó. Tuy nhiên, Hàn Quốc đã tham gia vào một nhóm mới gồm các quốc gia hạng trung trong tháng 9.

2. Hàn Quốc giao ước với Triều Tiên

Tổng thống Park lên nắm quyền với hy vọng thuyết phục Triều Tiên bằng khẩu hiệu “chính trị niềm tin”. Sự căng thẳng với Triều Tiên và việc đóng cửa khu công nghiệp Kaesong đã ngăn cản bất kể một sự nỗ lực nào nhằm thuyết phục Bình Nhưỡng, vì vậy Hàn Quốc đã nỗ lực để khởi động lại quá trình đoàn tụ gia đình và tiếp tục một số viện trợ nhân đạo. Triều Tiên đã đồng ý hơn là hủy bỏ các cuộc đoàn tụ này. Đây vẫn là chính sách của chính quyền nhưng nó đòi hỏi Triều Tiên phải sẵn sàng hợp tác, điều mà vẫn còn thiếu đến thời điểm này.

3. Triều tiên thử tên lửa hạn nhân: ngày 12 tháng 2 năm 2013

4. Tiếp cận với Trung Quốc

Sau giai đoạn quan hệ cứng rắn với Trung Quốc dưới thời tổng thống Lee Myung-bak, tổng thống Park Geun-hye được kỳ vọng sẽ sớm tiếp cận với Trung Quốc trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ. Sau một cuộc họp thành công vào tháng 6 với chủ tịch mới của Trung Quốc, Tập Cận Bình, quan hệ hai nước dường như có chiều hướng đi lên. Một sự kiện quan trọng khác trong năm 2013 là Trung Quốc quyết định tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không mới có sự chồng lấn với khu vực riêng của Hàn Quốc.

5. Nền kinh tế Hàn Quốc đã chạm đáy vào năm 2013, nhưng triển vọng tăng trưởng còn chưa chắc chắn

Sau khi phải đối mặt với sự suy giảm trong năm 2012, năm 2013, tăng trưởng kinh tế đã liên tục đi xuống, Tổng thống Park phải đối mặt với một nền kinh tế chậm lại khi bà nhậm chức. Trong tháng 4, chính quyền đã ứng phó bằng một gói kích thích tài chính và GDP dự kiến ​​sẽ tăng trưởng 2,8% trong năm 2013. Tốc độ tăng trưởng dự kiến ​​gần 4% GDP trong năm 2014

6. Một cách tiếp cận mới trong chính sách mậu dịch

Chính quyền tổng thống Park đã chuyển chức năng chính sách mậu dịch từ Bộ Ngoại giao và Mậu dịch sang một bộ mới là Bộ Mậu dịch, Công nghiệp và Thương mại và vạch ra một lộ trình chính sách mậu dịch mới. Những thay đổi trong cách tiếp cận mới chú trọng tới việc giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu và tập trung nhiều hơn vào các thỏa thuận mậu dịch khu vực. Điều này dẫn tới sự thể hiện quan tâm của Hàn Quốc tới TPP vào cuối tháng 11/2013, sớm hơn chúng ta dự đoán.

7. Trang bị vũ khí mới

Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ đặt hàng một máy bay chiến đấu thế hệ tiếp theo trong nửa đầu của năm 2013, nhưng việc này sẽ bị trì hoãn cho đến năm 2014 sau khi lựa chọn nâng cấp F-15 Silent Eagle của hãng Boeing bị chỉ trích trước đó vì nó khả năng tàng hình của nó. Tuy nhiên, Seoul đã tiến trước trên một hợp đồng nâng cấp máy tính, cảm biến và vũ khí trên chiếc F-16s.

8. Đàm phán cho một Hiệp định 123 Mỹ-Hàn mới

Seoul và Washington quyết định mở rộng thỏa thuận hiện tại thêm hai năm để có thêm thời gian cho hai bên tìm ra một thỏa thuận đôi bên cùng có thể chấp nhận được.

9. Tiếp tục những tranh chấp lịch sử

Căng thẳng về vấn đề lịch sử vẫn ở mức cao giữa Hàn Quốc và Nhật Bản vào năm 2013 với việc tổng thống Park Geun-hye cho rằng ​​không có gì để bàn trong một hội nghị thượng đỉnh với Nhật Bản vào tháng 11 và thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã thực hiện một chuyến thăm gây tranh cãi tới đền Yasukuni.

10. Điệu nhảy Gangnam Style vẫn chưa thể thay thế

Đối với bất kỳ bài hát K-Pop nào mà hy vọng sẽ lặp lại thành công như điệu "Gangnam Style" của ca sĩ Psy đã không bao giờ có thể xảy ra. Psy theo dõi điệu nhảy "Quý ông" chỉ thấy khoảng 1/3 lượt xem so với điệu "Gangnam Style" trên Youtube, nhưng nó đã vươn lên vị trí số 5 ở Hoa Kỳ làm cho anh ta vẫn là ông hoàng nhạc K-Pop tại Hoa Kỳ.

11. Thanh trừng Jang Sang Thaek

Trong một sự cạnh tranh quyền lực rõ ràng, Jang Sang Thaek đã bị thanh trừng một cách công khai và thực hiện bởi Triều Tiên trong tháng 12/2013.

12. Mở cửa trở lại khu công nghiệp Kaesong

Khi căng thẳng gia tăng giữa Triều Tiên và Hàn Quốc vào đầu năm 2013, Bình Nhưỡng đã rút người lao động của mình và đóng cửa khu công nghiệp Kaesong trong vòng 5 tháng trước khi nó mở cửa trở lại vào tháng 9/2013.

13. Hàn Quốc lần đầu tiên phóng vệ tinh bản địa

Vào ngày 30 tháng 1/2013, Hàn Quốc đã trở thành một trong 13 quốc gia phát triển tên lửa của riêng mình và đưa một vệ tinh vào quĩ đạo.

14. Khu vực nhận diện phòng không

Căng thẳng đã được nâng lên ở Đông Bắc Á khi Trung Quốc tuyên bố một Khu vực nhận diện phòng không (ADIZ) ở Biển Đông Trung Quốc mà nó chồng lấn với các vùng tương tự của Hàn Quốc và Nhật Bản, cũng như các lãnh thổ tranh chấp của Trung Quốc với từng nước láng giềng. Hàn Quốc phản ứng với tuyên bố của Trung Quốc bằng cách mở rộng ADIZ riêng của mình.

15. Cựu ngôi sao bóng rổ Mỹ Rodman tới Bình Nhưỡng

Có lẽ là bất ngờ lớn nhất của năm 2013 đó là cựu ngôi sao bóng rổ Mỹ tới thăm Bình Nhưỡng và thắp lên một tình bạn với Kim Jong-un. Chuyến thăm của Rodman diễn ra trong bối cảnh chính trị Triều Tiên đang có những biến động phức tạp sau vụ xử tử ông Jang Song-thaek, người có quyền lực số hai đất nước và là chú của nhà lãnh đạo Kim Jong-un. Rodman là người Mỹ nổi bật nhất từng gặp Kim Jong-un kể từ khi nhà lãnh đạo trẻ lên điều hành đất nước thay cha cuối năm 2011. Rodman từng đến Triều Tiên hai lần vào tháng 2 và tháng 9 năm 2013.

Nguồn: http://blog.keia.org/2013/12/the-korean-peninsula-in-2013-in-review/

 

TS. Võ Hải Thanh – Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc

 

http://redsvn.net/dia-chinh-tri-nhung-khai-niem-va-dinh-nghia2/

 

  •  

 

Địa chính trị, những khái niệm và định nghĩa

Chính trị của một quốc gia nằm ở trong địa lý của nó – Napoléon Bonaparte.

I/ Khái niệm địa chính trị

Chính trị là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội và vì thế, địa chính trị cũng có thể được coi là lĩnh vực thiết yếu của đường lối phát triển quốc gia và đường lối quan hệ quốc tế. Nó là một trong những lĩnh vực có vai trò chỉ đạo và chi phối mọi lĩnh vực khác. Trong lịch sử thế giới, sự ảnh hưởng của các lý thuyết địa chính trị đến đường lối đối nội và đối ngoại của một quốc gia là rất quan trọng. Vì thế, vấn đề địa chính trị có một ý nghĩa cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn không thể phủ nhận.

Với một cấu tạo từ ghép như vậy, khái niệm địa chính trị khó có thể được xếp riêng vào một ngành khoa học hay lĩnh vực hoạt động chuyên biệt. Với cách gọi như thế, hiển nhiên nó nằm giữa hai lĩnh vực chính trị và địa lý. Tuy nhiên, người ta coi đây là một ngành khoa học xã hội mới xuất hiện, vì thế, quan niệm về nó vẫn chưa nhận được một sự thống nhất trong cách hiểu.

Có người cho rằng khi mới ra đời vào khoảng đầu thế kỷ 20, địa chính trị là một đứa con lai giữa khoa học địa lý với một ngành khoa học chính trị còn chưa rõ hình hài. Khi nói đến chính trị là người ta nghĩ đến việc phải nghiên cứu quốc gia trong sự vận động của nó bằng cách nghiên cứu nó trong mố liên quan đến địa lý học. Còn ngày nay, thực chất thì có vẻ như người ta dùng khái niệm địa chính trị để chỉ tất cả những gì có quan hệ ít nhiều đến các vụ việc đối ngoại.

Như vậy có thể nói, câu hỏi “Địa chính trị là gì?” vẫn là một câu hỏi khó có thể nhận được một câu trả lời nhất quán.

Để diễn ta tính chất khó minh định của khái niệm đại chính trị, một học giả nước ngoài là Michael Mayer có kể một câu chuyện rằng, năm 1964, trong một phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ, quan tòa thượng thẩm Potter Stewart cho rằng văn hóa phẩm khiêu dâm rất khó định nghĩa, nhưng ông nói: “Tôi biết nó là gì khi tôi thấy nó”. Liên hệ với ngành khoa học địa chính trị, Mayer cho rằng khoa học này luôn luôn được người ta xem xét lại, làm cho nó bất định đến nỗi ta có thể đảo ngược định nghĩa của Stewart mà xác định cho nó như sau: “Khi thấy nó thì tôi sẽ biết nó là gì”. Quả thực, vì tính bất định của nó mà chúng ta đã có rất nhiều định nghĩa về địa chính trị.

Có thể tham khảo một số định nghĩa của giới khoa học để hiểu rõ nội hàm của khái niệm này.

Từ điển bách khoa Le Petit Larousse illustré của Pháp (năm 2000) đã định nghĩa “Địa chính trị [là] nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dữ liệu địa lý với nền chính trị của các quốc gia” (tr. 473). Như vậy cuốn từ điển này coi địa chính trị là một lĩnh vực khoa học nằm giữa địa lý với chính trị, hay cũng có thể nói nó bao hàm cả địa lý lẫn chính trị. Và đặc biệt, cuốn từ điển này không có mục từ “địa lý học chính trị”.

Từ điển bách khoa Britannica (2004 CD-ROM) định nghĩa địa chính trị là “sự phân tích những ảnh hưởng của địa lý đến các mối quan hệ quyền lực trong chính trị quốc tế. Trong việc hoạch định chính sách quốc gia, các nhà lý thuyết địa chính trị đã tìm cách chứng minh tầm quan trọng của những điều đáng chú ý như việc xác lập được đường biên giới quốc gia, quyền tiếp cận các đường biển quan trọng và quyền kiểm soát những khu vực đất liền có tầm quant rọng chiến lược”.

Đó là những định nghĩa có tính kinh điển. Các định nghĩa khác cũng xoay quanh các yếu tố tương tự. Chúng ta hãy xem xét quá trình thiết lập định nghĩa địa chính trị đã diễn ra như thế nào trong lịch sử.

Chẳng hạn như Rudolf Kjellén (1864 – 1922), người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “địa chính trị” vào năm 1990, đã định nghĩa về ngành khoa học này như sau: Địa chính trị là lý thuyết về các quốc gia với tư cách là một cơ thể địa lý hoặc một hiện tượng trong không gian, tức là với tư cách đất đai, lãnh thổ, khu vực hoặc đặc biệt nhất là một đất nước”, hay “nghiên cứu các chiến lược của các cơ thể chính trị trong không gian”. Trong định nghĩa này, Kjellén chú trọng đến hai yếu tố chủ chốt của địa chính trị: quyền lực và không gian (lãnh thổ, đất đai).

Tướng Đức Karl Haushofer (1869 – 1946) thì bổ sung các tiến trình chính trị cho định nghĩa về địa chính trị: “Địa chính trị là một ngành khoa học quốc gia mới nghiên cứu về nhà nước,… một học thuyết về quyết định luận không gian của các tiến trình chính trị, dựa trên cơ sở rộng rãi của địa lý học, đặc biệt là địa lý học chính trị. Như vậy thì theo Haushofer, địa chính trị được hình thành trên cơ sở của địa lý học nói chung và của địa lý học chính trị nói riêng. Và như thế tức là Haushofer coi địa chính trị là một bộ phận của địa lý học chính trị chứ không phải ngược lại như có người (như Efferink) đã hiểu.

Đến thời hiện đại, nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về địa chính trị. Chẳng hạn, năm 1964, tác giả người Anh Saul Bernard Cohen đã định nghĩa địa chính trị là khoa học nghiên cứu về “mối quan hệ giữa quyền lực chính trị quốc tế với khung cảnh địa lý”.

Năm 1988, Oyvind Osterud đã định nghĩa địa chính trị là: “Nói một cách tóm tắt, theo truyền thống thì địa chính trị được dùng để chỉ các mối liên hệ và quan hệ nhân quả giữa quyền lực chính trị với không gian địa lý; nói một cách cụ thể, nó thường được coi là một khối tư duy có nhiệm vụ thử nghiệm những yêu cầu chiến lược đặc thù dựa trên tầm quan trọng tương đối của sức mạnh trên đất liền và sức mạnh trên biển trong lịch sử thế giới… Truyền thống địa chính trị có một số quan ngại thường xuyên, ví dụ như những nhân tố tương quan sức mạnh trong nền chính trị thế giới, như việc xác định các khu vực chủ chốt của quốc tế, và các mối quan hệ giữa khả năng hải quân và khả năng trên bộ” (Oyvind Osterud, “Sử dụng và lạm dụng địa chính trị”, Journal of Peace Research, No. 2, 1988, p. 191).

Năm 1993, trong cuốn sách Political Geography [“Địa lý học chính trị”], Longman, xuất bản lần thứ 3], tác giả Peter J. Taylor viết rằng sự phục hồi của địa chính trị đã được định hình theo 3 cách:

1/ “Địa chính trị đã trở thành một thuật ngữ thông dụng để mô tả sự cạnh tranh toàn cầu trong nền chính trị thế giới”.

2/ “…Hình thức thứ hai (…) là một hình thức hàn lâm, một địa chính trị mới mang tính phê phán hơn. Các nghiên cứu lịch sử mang tính phê phán đối với địa chính trị trong quá khứ đã trở thành một thành tố cần thiết của ngành “địa chính trị của nhà địa lý học”.

3/ “…Hình thứ thứ ba (…) liên quan đến phong trào vận động hành lang mang tính tân bảo thủ, có thiên hướng quân sự, cung cấp các luận cứ địa chính trị cho “lối nói khoa trương của phong trào này về chiến tranh lạnh”. Những công trình nghiên cứu như thế đang nói đến “những thúc bách về địa chính trị” và chúng coi địa lý học là “nhân tố thường trực” mà mọi tư tưởng chiến lược cần phải xoay quanh”.

Taylor còn tuyên bố rằng những công trình phân tích địa chính trị luôn có khuynh hướng quốc gia. Ông nói: “Trong trường hợp của địa chính trị, người ta luôn dễ dàng nhận ra quốc tịch của tác giả dựa vào các công trình nghiên cứu của anh ta”. Và ông cũng gắn địa chính trị với lĩnh vực nghiên cứu quan hệ quốc tế: “Nhìn chung, địa chính trị là một bộ phận của chủ nghĩa hiện thực truyền thống trong lĩnh vực nghiên cứu quan hệ quốc tế”.

Năm 1995, khi xuất bản cuốn sách Le Bouleversement du monde – Géoplitique du XXIe siècle [Sự đảo luộn thế giới : Địa chính trị thế kỷ XXI] (Seuil, Paris), tác giả Marisol Touraine (Pháp) đã ghi ngoài bìa hai chữ « Science politique » [« khoa học chính trị »], cho thấy là tác giả coi lĩnh vực địa chính trị là thuộc ngành chính trị học. Tác giả cũng là người giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Viện Nghiên cứu Chính trị Paris.

Năm 1999, trong công trình Introduction à l’analyse géopolitique [Nhập môn phân tích địa chính trị, Ellipese], nhà nghiên cứu người Pháp Aymeric Chauprade đã phát triển một phương pháp luận địa chính trị chặt chẽ. Ông định nghĩa địa chính trị như sau:

“Khoa học địa chính trị là việc nghiên cứu nội hàm của các thực tế địa chính trị và sự vận động của chúng, thông qua việc nghiên cứu diện mạo, hình thức và những vị trí địa chính trị”. Và ông xác định rõ thêm: “…Nói quốc gia là trung tâm và con bài của các tham vọng địa chính trị không có nghĩa là quốc gia là các tác nhân thế giới duy nhất; khác với lĩnh vực quan hệ quốc tế, (…) khoa học địa chính trị chấp nhận cả các tác nhân khác và các thực tế địa chính trị khác nữa”.

Như vậy là, khác với các nhà địa chính trị cổ điển, Chauprade phân biệt rõ ràng giữa địa chính trị với quan hệ quốc tế.

Đến năm 2003, trong cuốn sách Geopolitics of the World System [Địa chính trị của hệ thống thế giới, Rowman và Littlefield], Saul Bernard Cohen lại định nghĩa rõ thêm về địa chính trị: “Địa chính trị là việc phân tích mối tương tác giữa một bên là môi trường và bối cảnh địa lý với một bên là các tiến trình chính trị. (…) Cả môi trường địa lý lẫn tiến trình chính trị đều mang tính năng động và có ảnh hưởng lẫn nhau. Địa chính trị sẽ quan tâm đến hậu quả của mối tương tác này”. Như vậy, Cohen tập trung vào mối tương tác năng động giữa quyền lực và không gian.

Cũng trong thời gian này, giáo sư người Mỹ Micheal T. Klare, chuyên gia về các vấn đề an ninh thế giới, lại nhìn nhận địa chính trị từ góc độ tài nguyên. Ông quan niệm địa chính trị là “sự tranh giành giữa các đại cường quốc và giữa những đại cường quốc có tham vọng đối với việc kiểm soát lãnh thổ, kiểm soát các nguồn tài nguyên và những vị trí địa lý quan trọng như hải cảng, kênh đào, hệ thống sông ngòi, ốc đảo, cùng các nguồn của cải và nguồn ảnh hưởng khác”; ông cho rằng sự tranh giành này chính là động lực của nền chính trị thế giới và đặc biệt là của xung đột thế giới trong nhiều thế kỷ qua.

Giống như Cohen, cuốn từ điển bách khoa của Pháp Le dictionnaire historique et géopolitique du 20e siècle [Từ điển lịch sử và địa chính trị thế kỷ 20], do Serge Cordellier chủ biên (La Découverte, 2005) cũng tập trung chú ý đến quyền lực chính trị và không gian : “Việc nghiên cứu địa chính trị nhằm chủ tyếu vào việc làm sáng tỏ những mối quan hệ tương tác giữa những hình thể không gian với những gì thuộc về chính trị”. Vì thế, theo nó, việc phân tích địa chính trị “cần phải đưa ra được những yếu tố khách quan của cuộc tranh luận dân chủ về những ván bài lớn của thế giới có khả năng ảnh hưởng đến các quốc gia và đến các phương thức quản lý lãnh thổ của họ”.

Là người có đóng góp chủ yếu cho sự phục hồi địa chính trị của Pháp kể từ những năm 1970, Yves Lacoste đã tuyên bố trong cuốn sách mới đây của mình – Géopolitique, la longue histoire [Địa chính trị, một lịch sử dài, Larousse, 2006] như sau: “Thuật ngữ địa chính trị là cái mà ngày nay người ta đã sử dụng cho nhiều việc khác nhau, thực tế được dùng để chỉ tất cả những gì liên quan đến sự cạnh tranh quyền lực hoặc ảnh hưởng đối với những vùng lãnh thổ và dân chúng sống trên đó; đó là sự cạnh tranh giữa đủ loại thế lực chính trị chứ không phải chỉ là giữa các quốc gia, mà còn giữa các phong trào chính trị hoặc các nhóm vũ trang ít nhiều bất hợp pháp – đó là sự cạnh trnah để giành quyền kiểm soát hoặc thống trị đối với các vùng lãnh thổ có quy mô lớn hoặc nhỏ”. Trong định nghĩa này, Lacoste nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô của cả quyền lực (quốc gia chống lại các tổ chức) lẫn của không gian (lãnh thổ lớn chống lại lãnh thổ nhỏ).

Cũng trong năm 2006, trong cuốn sách Introdution to Geopilitics [Nhập môn địa chính trị, Routledge], tác giả Colin Flint nhấn mạnh đến khía cạnh thực tiễn của lĩnh vực khoa học này: giành giật quyền lực: “Địa chính trị, với tư cách là cuộc đấu tranh nhằm kiểm soát không gian và địa điểm, tập trung chú ý vào quyền lực. (…) Torng những quá trình thực hành địa chính trị ở thế kỷ 19 và đầu thế kỷ XX, quyền lực được nhìn đơn giản như là quyền lực tương đối của các quốc gia trong các hoạt động đối ngoại. Đến cuối thế kỷ 20, (…) các định nghĩa về quyền lực đều tập trung vào khả năng tiến hành chiến tranh của một nước chống lại các nước khác”. Theo Flint, quyền lực luôn có vai trò trung tâm trong định nghĩa về địa chính trị, mặc dù ông cũng nhấn mạnh cần phải định nghĩa địa chính trị theo nhiều cách khác nhau: “Mục đích của chúng ta nhằm hiểu biết, phân tích và có khả năng phê phán nền chính trị thế giới đòi hỏi chúng ta phải làm việc với nhiều định nghĩa khác nhau về địa chính trị”. Đó cũng là tinh thần của trường phái “địa chính trị phê phán”.

Thời gian này nhà nghiên cứu Vladimir Toncea quan niệm: “Địa chính trị là nghiên cứu các hệ thống địa chính trị. Theo quan điểm của tôi, hệ thống địa chính trị là tập hợp các mối quan hệ giữa quyền lợi của các tác nhân chính trị quốc tế, các quyền lợi đó tập trung vào một khu vực, một không gian, một thành phần hoặc những con đường địa lý” (Geopolitical evolution of borders in Danube basin, PhD, 2006).

M.R. Hafeznia (Iran) thì cho rằng: “Địa chính trị, với tư cách là một phân nhánh của khoa học địa lý học chính trị (tôi nhấn mạnh – tác giả), nó nghiên cứu các mối quan hệ qua lại giữa địa lý, chính trị và quyền lực, cũng như nghiên cứu những mối tương tác nảy sinh do có sự kết hợp giữa các yếu tố đó với nhau. Theo định nghĩa này, địa chính trị là một bộ môn khoa học mang bản tính là một ngành khoa học cơ bản” (M.R. Hafeznia, Principles and Concepts of Geopolitics, Popoli Publications, Iran 2006, pp 37 – 39).

David Criekemans (Đan Mạch), trong một cuốn sách xuất bản năm 2007, quan niệm rằng địa chính trị là một bộ phận của cả địa lý học chính trị lẫn nghiên cứu quan hệ quốc tế. Một điều đáng quan tâm là định nghĩa của Haushofer tập trung vào lĩnh vực thứ nhất, còn định nghĩa của Taylor tập trung vào lĩnh vực thứ hai. Cũng giống như Cohen, Criekmans tập trung vào mối tương tác (năng động) giữa chính trị và lãnh thổ.

Năm 2008, trong công trình India and Geopolitics [Ấn Độ và địa chính trị], nhà nghiên cứu Praker Bandimutt đã định nghĩa “Địa chính trị là một phương pháp phân tích chính trị, được thông dụng ở Trung Âu trong nửa đầu thế kỷ 20, nhấn mạnh vai trò của địa lý trong các mối quan hệ quốc tế”. Như vậy, cho đến gần hết thập kỷ đầu của thế kỷ 21, không ít nhà lý luận địa chính trị vẫn coi địa chịnh trị là một khoa học liên quan đến lĩnh vực quan hệ quốc tế.

Theo Efferink (2009), từ diễn biến các quan niệm về địa chính trị, chúng ta có thể rút ra mấy điểm đáng chú ý như sau:

1/ Kể từ khi xuất hiện khái niệm địa chính trị vào cuối thế kỷ XIX, thì quyền lực (sự ảnh hưởng, chính trị) và không gian (lãnh thổ, đất đai) đã đóng một vai trò chủ chốt trong các định nghĩa về địa chính trị;

2/ Ban đầu, các định nghĩa về địa chính trị chỉ bao hàm quốc gia với tư cách là một thực thể quyền lực, nhưng các định nghĩa hiện thời đã đánh giá quyền lực của các thực thể khác (ví dụ như Flint nói đến các tác nhân địa chính trị);

3/ Trong khi một số nhà lý thuyết địa chính trị muốn hoặc tự cho là mình có khả năng phân tích khách quan, thì có một trường phái (địa chính trị phê phán) lại cho rằng điều này hầu như không thể thực hiện được;

4/ Việc liệu địa chính trị có phải là bộ phận của nghiên cứu quan hệ quốc tế hay không đang là một chủ đề tranh cãi;

5/ Định nghĩa địa chính trị phụ thuộc vào thời gian và địa điểm. Năm 2005, trong cuốn sách Introduction à là géopolitique [Nhập môn địa chính trị] (Seuil), Philippe Moreau Defarges đã phát biểu rất hay về điều này : “Ở mỗi thời đại, mỗi nền văn minh lại có địa lý học riêng của nó, có quan điểm và sự diễn đạt không gian theo kiểu riêng của nó”.

Tóm lại, mặc dù vẫn còn có nhiều định nghĩa khác nhau về địa chính trị, nhưng nhìn chung, khi nói đến địa chính trị là người ta nói đến vai trò của địa lý đối với địa chính trị của một quốc gia, đặc biệt là đối với chính sách đối ngoại, đúng như câu nói của Napoléon Bonaparte đã phản ánh: “Chính trị của một quốc gia nằm ở trong địa lý của nó”, một câu nói vẫn thường được các nhà địa chính trị trích dẫn.

II/ Khái niệm địa lý học chính trị

Ngoài 5 điều Efferink rút ra như trên, chúng tôi thấy có một điều nữa cần làm sáng tỏ: Đó là địa chính trị và địa lý học chính trị là hai lĩnh vực riêng biệt hay là một ngành khoa học với hai tên gọi khác nhau?

Trong tiếng Anh, chúng ta gặp hai thuật ngữ: geopolitics và political geography, người Việt Nam thường dịch là địa chính trị và địa lý học chính trị.

Theo từ điển Wikipedia thì “Địa lý học chính trị là một lĩnh vực thuộc ngành địa lý học nhân văn, có nhiệm vụ nghiên cứu cả những tác động không đồng đều về mặt không gian của các quá trình chính trị lẫn những cách thức theo đó bản thân các quá trình chính trị ấy bị các cơ cấu không gian tác động”. Đó cũng là quan niệm của nhiều người. Tuy nhiên, hai khái niệm địa chính trị và địa lý học chính trị gần gũi nhau đến nỗi trong khi phân tích các hiện tượng địa lý và chính trị cũng như các mối quan hệ giữa chúng, hầu như người ta vẫn dùng lẫn lộn hai khái niệm này mà ít khi có sự phân biệt rạch ròi giữa chúng. Nhiều cuốn từ điển cũng chỉ có mục từ “địa chính trị” mà không có mục từ “địa lý chính trị”. Chẳng hạn như trong cuốn từ điển Larousse đã nói ở trên, ngoài mục từ “địa chính trị”, mục từ “địa lý học” chỉ được chia nhỏ đến các mục từ “địa lý học nhân văn”, “địa lý học kinh tế” và “địa lý học tự nhiên” chứ không có “địa lý học chính trị”. Có nghĩa là theo các tác giả của cuốn từ điển này, “địa lý học chính trị” chính là “địa chính trị”. Và họ dùng thuật ngữ “địa chính trị” để thay cho “địa lý học chính trị”. (Một số cuốn từ điển Pháp – Việt của Việt Nam cũng tiếp thu quan điểm như vậy).

Trong khi đó Gabriel Wackermann, người viết mục từ “Géographie” [“Địa lý học”] cho cuốn từ điển bách khoa của Pháp Encyclopedia Universalis, lại có quan điểm ngược lại. Mặc dù Wackermann cũng không phân biệt “địa lý học chính trị” với “địa chính trị”, nhưng ông lại không chọn thuật ngữ “địa chính trị” làm thuật ngữ chính, mà ông coi nó chỉ là cách gọi tắt của thuật ngữ “địa lý học chính trị”. Vì thế, trong quan niệm của ông và trái với quan niệm của các tác giả tù điển Larousse, thuật ngữ chính vẫn là “địa lý học chính trị” và nó được dùng để thay thế cho thuật ngữ “địa chính trị”. Và Wackermann cũng xếp lĩnh vực này vào một trong những lĩnh vực chuyên biệt của khoa địa lý học.

Song gần đây cũng có một nỗ lực muốn phân biệt hai khái niệm đó với nhau. Đi theo xu hướng này, Virginie Mamadouh thuộc Đại học Amsterdam lại coi địa lý học chính trị là một trường phái trong địa chính trị. Khi nghiên cứu tình hình địa chính trị của thế kỷ 20, bà đã phân ra 4 trường phái ở thế kỷ này và coi hướng nghiên cứu địa lý học chính trị là một trường phái phi địa chính trị, tức là tách biệt với địa chính trị. Bà cho rằng, mặc dù địa chính trị và địa lý học chính trị gần như là hai từ đồng nghĩa, nhưng thuật ngữ “địa lý học chính trị” có nội hàm khoa học, còn “địa chính trị” lại có nội hàm chính trị. Bà cũng cho rằng xu hướng của trường phái địa lý học chính trị thiên về nghiên cứu các mối quan hệ quốc tế, nó tương ứng với xu hướng “địa chính trị hình thức” của giới hàn lâm trong cách phân chia của Peter J. Taylor và John O’Loughlin (Anh). Hai người này đã phân chia ra hai xu hướng địa chính trị: “địa chính trị thực tiễn” của những người thực hiện chính sách đối ngoại quốc gia; và “địa chính trị hình thức” của các học giả và các nhà quan sát nghiên cứu về quan hệ quốc tế.

Mamadouh cho rằng trường phái “phi địa chính trị” nghiên cứu sự phân bổ không gian quyền lực giữa các quốc gia, đặc biệt là giữa các đại cường quốc với các tác nhân siêu quốc gia như Liên Hợp Quốc và Tổ chức Bắc Đại Tây Dương (NATO). Trường phái này bao gồm, bên cạnh các nhà địa lý học chính trị, còn có các nhà khoa học chính trị liên can đến cái gọi là “nghiên cứu hòa bình” (đối lập với “nghiên cứu chiến lược”). Vì thế, xu hướng tiếp cận này còn được gọi là “địa chính trị hòa bình”.

Mamadouh có lý khi nhấn mạnh đến thiên hướng chính trị của “địa chính trị”, nhưng khi bà coi địa lý học chính trị là một trường phái của địa chính trị thì lại không hợp lý và đi ngược lại với ý kiến của nhiều người cho rằng địa chính trị là một lĩnh vực, một phân nhánh hay một phân môn của địa lý học chính trị.

Song, ý kiến của Mamadouh lại gợi chúng tôi một hướng giải quyết khác. Chúng tôi cho rằng nếu coi địa chính trị là một phân nhánh của địa lý học chính trị thì cũng không hoàn toàn chính xác. Xuất phát từ thực tế rằng hai khái niệm này nhiều khi bị dùng lẫn cho nhau như là hai bộ môn có cùng chức năng, chúng tôi cho rằng, có lẽ nên coi đây là hai sắc thái của một bộ môn khoa học thuộc ngành địa lý học nhân văn, một sắc thái mang tính lý thuyết nhiều hơn – đó là địa lý học chính trị, còn một sắc thái mang tính thực hành chiến lược ứng dụng vào đời sống chính trị – đó là địa chính trị.

Tuy nhiên, cho dù có sắc thái khác nhau như vậy, nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu không phân biệt dứt khoát giữa địa chính trị với địa lý học chính trị và việc dùng lẫn hai khái niệm vẫn là hiện tượng phổ biến. Chúng tôi cũng muốn lưu ý thêm rằng, ở Việt Nam có thể có người cho rằng tên gọi “địa chính trị” chỉ là cách gọi tắt của bộ môn khoa học “địa lý học chính trị” mà thôi. Nhưng thực ra, nếu căn cứ vào tên gọi của hai bộ môn này trong một số tiếng nước ngoài, ví dụ như tiếng Anh, Pháp, Nga (geopolitics/géopolitique), thì chúng ta sẽ phải gọi địa chính trị là “chính trị học địa lý”. Như thế, nó sẽ mang bóng dáng của một bộ môn chính trị học nhiều hơn là của bộ môn địa lý học.

III/ Khái niệm địa chiến lược

Gần gũi với khái niệm địa chính trị còn có khái niệm “địa chiến lược” [tiếng Anh: “geostrategy”]. Khái niệm này được dùng để chỉ việc nghiên cứu giá trị chiến lược của các nhân tố địa lý trong chính sách đối ngoại của một quốc gia và trong mối quan hệ của nó với các quốc gia khác. Như vậy, địa chiến lược là một bộ phận thực hành quan trọng của địa chính trị.

Nếu như địa chính trị còn có nhiều định nghĩa khác nhau, thì địa chiến lược lại có được một cách hiểu tương đối thống nhất. Nhìn chung, địa chiến lược được coi là một lĩnh vực của địa chính trị, được áp dụng để cụ thể hóa chính sách đối ngoại của một quốc gia. Hầu hết các định nghĩa về địa chiến lược đều nhấn mạnh đến việc liên kết những tính toán chiến lược với các nhân tố địa chính trị. Các nhà nghiên cứu cho rằng, trong khi địa chính trị có một vẻ ngoài trung lập khi nghiên cứu những đặc điểm địa lý và chính trị của các khu vực khác nhau, đặc biệt là nghiên cứu sự tác động của địa lý đến chính trị, thì địa chiến lược đòi hỏi phải có kế hoạch và đề ra các biện pháp toàn diện để thực hiện các mục tiêu quốc gia hoặc bảo vệ những tài sản có ý nghĩa quân sự hoặc chính trị (Zbigniew Brzezinski).

Thuật ngữ “địa chiến lược” là một thuật ngữ mới xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ 20. Trong các nước nói tiếng Anh, nó được Frederick L. Schuman sử dụng lần đầu tiên dưới tên gọi “geo-strategy” vào năm 1942. Nhưng điều đáng nói là nó được dùng để dịch một thuật ngữ tiếng Đức của Haushofer là “Wehrgeopolitik”, có nghĩa là “địa chính trị phòng vệ” hay “địa chính trị quốc phòng”. Chính vì thế mà trước đó cũng có người dịch sang tiếng Anh là “defense-geopolitics”, thậm chí nó còn được nhà địa chính trị người Mỹ gốc Áo Robert Strausz-Hupé (1903 – 2002) dịch là “war-geopolitics” [“địa chính trị chiến tranh”]. Xem thế thì thấy địa chiến lược gắn chặt với chính sách quốc phòng của một quốc gia. Tuy nhiên, đối với các nước đế quốc, nhiệm vụ quốc phòng không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ tổ quốc, mà chủ yếu là việc mở rộng và chinh phục lãnh thổ. Vì thế, địa chiến lược luôn luôn được đặt trong tầm nhìn của địa chính trị, thậm chí là địa chính trị toàn cầu, và được cụ thể hóa bằng tầm nhìn chiến tranh. Thậm chí có nhiều lúc, nhiều nhà địa chính trị chỉ khai thác bộ môn này để phục vụ cho các nhiệm vụ địa chiến lược quân sự, làm cho trong một số trường hợp cụ thể, đại chính trị đồng nhất với địa chiến lược. Trong tinh thần đó, quan điểm về địa lý học và địa chính trị của nhà địa lý học và địa chính trị người Pháp Yves Lacoste cũng có thể được coi là có thiên hướng nhấn mạnh đến địa chiến lược quân sự khi ông có một lời phát biểu nổi tiếng năm 1975: “Địa lý học phục vụ trước hết cho việc tiến hành chiến tranh”.

Mặc dù thuật ngữ địa chiến lược mới được hình thành ở nửa đầu thế kỷ 20, nhưng tư tưởng địa chiến lược thì đã xuất hiện từ thời xa xưa. Từ Đông sang Tây, mỗi khi tiến hành các chiến dịch quân sự, các tướng lĩnh đều phải tính toán đến các yếu tố địa lý và chính trị – quân sự để đề ra các chiến lược hành động. Các nhà chiến lược như Tôn Tử (thế kỷ 6 – 5 trước Công nguyên), Tôn Tẫn (thế kỷ 4 trước Công nguyên) của Trung Quốc, Trần Quốc Tuấn (thế kỷ 13) của Việt Nam đều có thể được gọi là những nhà địa chiến lược đại tài khi họ biết kết hợp chính trị với thiên thời và địa lợi để thực hiện các mục tiêu quân sự, không kém gì các tướng tài của các đế quốc Hy Lạp, La Mã… bên phương Tây.

Trong Binh pháp Tôn Tử, Tôn Tử [Tôn Vũ] đã đúc kết kinh nghiệm và rút ra các bài học về việc dùng binh. Ông đã đưa ra 5 nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của chiến tranh: Đạo, Thiên, Địa, Tướng, Pháp, trong đó 3 nhân tố đầu đều có thể được coi là thuộc phạm vi của địa chính trị. Ông nói rõ: “Đạo là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa”; “Thiên là thiên thời (…)”, túc tình trạng về khí hậu thời tiết, “Địa là địa lợi”, nói về đường sá, địa thế, địa hình… Trong Thiên thứ mười (Địa hình), ông phân tích “sáu loại địa hình” cần chú ý khi dụng binh  và Thiên mười một (Cửu địa) ông dành để phân tích “chín thế đất” mà các tướng lĩnh cần quan tâm khi giao chiến. Có thể nói Binh pháp Tôn Tử là một cuốn “cẩm nang tác chiến” và là một trong những công trình lý luận địa chiến lược đầu tiên của tư duy địa chính trị.

Cuốn sách Binh gia diệu lý yếu lược, còn được gọi là Binh thư yếu lược, của Trần Quốc Tuấn (nay đã thất truyền) cũng là một cuốn sách có giá trị như là một công trình bàn về địa chiến lược quân sự. Các bài viết về Địa hình đã được Trần Quốc Tuấn vận dụng rất sáng tạo để tiêu diệt quân xâm lược nhà Nguyên trên cửa sông Bạch Đằng. Có thể thấy, địa chiến lược là một lĩnh vực đã có kinh nghiệm thực tiễn từ lâu và các bài viết về cách dùng binh có thể được coi là những bài thực nghiệm của địa chiến lược, đồng thời cũng có thể được coi là những bài học sơ khai của địa chính trị.

Như vậy, do tính chất gần gũi giữa địa chính trị, địa lý học chính trị và địa chiến lược cho nên khi bàn về địa chính trị, nếu chúng ta có phân tích các vấn đề thuộc địa lý học chính trị và địa chiến lược thì cũng hoàn toàn hợp lý và cần thiết, bởi lẽ khó có thể tách rời ba lĩnh vực này mà không làm hỏng bức tranh về quan hệ quốc tế trên trái đất của chúng ta. Ví dụ như bàn về Mackinder, người ta vừa coi ông là một nhà địa lý học, vừa là nhà địa chính trị và cũng vừa là nhà địa chiến lược. Chẳng hạn như trong cuốn sách Global Geostrategy: Mackinder and the defense of the West [Địa chiến lược toàn cầu: Mackinder và việc phòng thủ phương Tây] Của Brian W. Blouet (Routledge, 2005), tác giả đã dành cả tập 1 để giới thiệu các lý thuyết địa chính trị và tập trung vào Mackinder. Vì thế, để cho giản tiện, chúng ta có thể gộp tất cả các vấn đề của cả ba lĩnh vực nói trên dưới một cái mũ chung là “địa chính trị”.

IV/ Sự ra đời của một phân ngành khoa học

Đến đây, sau khi đã giới thiệu các định nghĩa về địa chính trị, địa lý học chính trị, địa chiến lược và đi đến thống nhất là đặt cả ba khái iệm dưới một cái mũ chung là “địa chính trị”, chúng tôi muốn tổng kết lại những quan niệm chủ yếu về địa chính trị.

Nhìn chung, có hai loại quan niệm về địa chính trị: Quan niệm thứ nhất cho rằng, địa chính trị là một phân nhánh của môn địa lý học chính trị, trong khuôn khổ của môn địa lý học nhân văn thuộc khoa địa lý học; Quan niệm thứ hai cho rằng, địa chính trị là một bộ môn thuộc ngành chính trị học, nghiên cứu lĩnh vực quan hệ quốc tế, liên quan đến vấn đề tương quan quyền lực giữa các quốc gia trong một cái khung bao quát hơn là nền chính trị thế giới. Nhưng, chúng tôi cho rằng, dù quan niệm như thế nào thì đại chính trị cũng là một lĩnh vực khoa học lý thuyết và thực hành liên quan đến cả địa lý lẫn quyền lực chính trị. Tùy từng trường hợp, khi nghiên cứu lý thuyết thì bộ môn này thiên về yếu tố địa lý, còn khi thực hành thì nó tập trung nhấn mạnh vào yếu tố chính trị.

Như vậy, với những điều đã nói ở trên, khi nói đến sự ra đời của phân ngành khoa học địa chính trị, chúng ta cũng có thể tính từ khi xuất hiện phân ngành địa lý học chính trị trong ngành địa lý học nhân văn. Chúng ta biết là khoa học địa lý tự nhiên đã xuất hiện từ thời cổ đại với tên tuổi các học giả Hy Lạp như Herodotos, Eratosthenes xứ Cyrene…; rồi trải qua quá trình phát triển thời trung đại với sự đóng góp của các học giả người Ai Cập như Ptolemaneus (thế kỷ 2 sau Công nguyên), sau đó là của các học giả người Arab; và đến thời hiện đại với tên tuổi của các học giả người Đức như Alexander von Humboldt (1769 – 1859), người được coi là đã đặt nền móng cho khoa học địa lý hiện đại.

Nhưng chỉ đến cuối thế kỷ 19, người ta mới bắt đầu quan tâm nhiều đến khía cạnh văn hóa – nhân văn của khoa học địa lý. Từ đó người ta nói đến sự xuất hiện một ngành trong khoa học địa lý là địa lý học nhân văn. Trong địa lý học nhân văn, người ta lại chú ý đặc biệt đến mối quan hệ giữa địa lý với chính trị – quân sự; và thế là xuất hiện một chuyên ngành mới, đó là địa lý học chính trị ra đời gần như cùng thời với địa lý học nhân văn.

Người ta cũng cho rằng Friedrich Ratzel (Đức) là người mở đường cho địa lý học nhân văn – chính trị với công trình Địa lý học chính trị xuất bản năm 1897 của ông. Tất nhiên ngay trước ông cũng đã có một số người đề cập đến địa chính trị về mặt này hay mặt khác. Chẳng hạn như thiếu tướng hải quân Hoa Kỳ Alfred Thayer Mahan, người đã có công trình mang tính địa lý – quân sự và còn được coi là nhà địa chiến lược đầu tiên về sức mạnh biển: Ảnh hưởng của sức mạnh biến đổi với lịch sử, giai đoạn 1660 – 1783 (1890). Nhưng, bằng công trình Địa lý học chính trị, Ratzel vẫn được coi là người mở đường cho ngành địa lý học chính trị thực thụ.

Đến năm 1900, trong cuốn sách Nhập môn địa lý Thụy Điển, nhà khoa học chính trị người Thụy Điển Rudolf Kjellén lần đầu tiên đã đưa ra thuật ngữ “địa chính trị” [tiếng Anh: “geopolitics”]. Là học trò của Ratzel, Kjellén cũng quan niệm quốc gia như là một cơ thể sinh học và ông nhấn mạnh đến yếu tố không gian và chính sách tự túc tự cấp của một quốc gia.

Kể từ Kjellén, thuật ngữ địa chính trị bắt đầu được dùng phổ biến trên thế giới. Khoa học địa chính trị cũng bắt đầu được quan tâm đặc biệt vì vào thời bấy giờ, nó có thể được dùng để biện hộ cho tư tưởng của các nước đế quốc. Cho đến nay, địa chính trị đã trở thành một bộ môn khoa học độc lập, được nghiên cứu trong giới khoa học và được giảng dạy trong các trường đại học. Với tư cách là một bộ môn, địa chính trị được coi là nằm ở ranh giới giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội – nhân văn, song về mặt tác động của nó thì đây là một trong những phân ngành khoa học có ý nghĩa xã hội vô cùng quan trọng. Thậm chí có thể nói, địa chính trị được quan tâm và phát triển chủ yếu về mặt ý nghĩa xã hội – nhân văn của nó, đến mức đôi khi người ta đã coi nó là một bộ môn khoa học của ngành chính trị học.

Như vậy, chúng tôi đã nói, với tất cả sự phức tạp và mơ hồ lẫn lộn giữa các thuật ngữ “địa lý học chính trị”, “địa chiến lược” và “địa chính trị”, chúng ta sẽ coi cả ba lĩnh vực này là thuộc khoa học “địa chính trị”, một phân ngành địa lý học nhân văn, được hình thành từ những năm cuối của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của các quốc gia. Có thể nói, trong suốt thế kỷ 20, các lý thuyết địa chính trị và các đường lối, chính sách địa chiến lược của các quốc gia đã gây ra nhiều biến động trong bức tranh trật tự thế giới, đến mức các nhà khoa học đã gọi thế kỷ 20 là thế kỷ địa chính trị.

Với tuổi đời hình thành và phát triển hơn một thế kỷ, địa chính trị đã chứng tỏ là một bộ môn khoa học đặc biệt chính vì ý nghĩa xã hội và nhân văn của mình. Nhưng sự đặc biệt đó không phải lúc nào cũng có ý nghĩa tích cực. Nếu được ứng dụng một cách khoa học và hợp lý, địa chính trị sẽ có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia; nhưng nếu bị lạm dụng và ứng dụng một cách cực đoan, địa chính trị sẽ đưa đất nước đi đến chỗ diệt vong, đó là trường hợp của nước Đức Quốc Xã và Nhật Bản trước đây. Chính vì vậy, mặc dù nói là một bộ môn khoa học, nhưng đôi khi địa chính trị cũng tỏ ra “phi khoa học” một cách đáng sợ. Cho nên, nhiệm vụ của các nhà khoa học là phải làm cho địa chính trị phát huy được hiệu quả xã hội tích cực, có như thế nó mới xứng đáng là một bộ môn khoa học thực sự.

Với tư cách là một bộ môn khoa học, địa chính trị cũng có nhiều lý thuyết và trường phái thực hành khác nhau. Các lý thuyết và trường phái đó đã góp phần xây dựng và phát triển địa chính trị và làm cho nó trở thành một bộ môn khoa học phức tạp và cũng rất hấp dẫn. Tuy nhiên, chính các lý thuyết cũng là cái làm cho địa chính trị có ý nghĩa xã hội tích cực hay tiêu cực, tức là chúng có ý nghĩa thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của đất nước. Vì thế, chúng ta khảo sát các lý thuyết này để rút ra những kinh nghiệm cho sự phát triển.

——————————-

Nguồn tham khảo: Nguyễn Văn Dân – Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển quốc gia – NXB KHXH 2011.

Theo T.GIANG / SCDRC

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét