Lưu trữ Blog

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Chuyên đề: TRẬT TỰ THẾ GIỚI VÀ ĐỊA CHÍNH TRỊ HÀN QUỐC

 

Chuyên đề: TRẬT TỰ THẾ GIỚI VÀ ĐỊA CHÍNH TRỊ HÀN QUỐC

PGS.TS. Hoàng Văn Việt

 

NỘI DUNG CHÍNH

GHI CHÚ

VÍ DỤ

I.              Giới thiệu tài liệu tham khảo ( 6 cuốn sách)

1.    Tập đề cương “ sử dụng quyền lực của các quốc gia’

2.    Quyền lực cứng -> HQ vận dụng điều kiện chinh trị, kinh tế để tham gia vào các Quan hệ Quốc tế.

+ Quyền lực cứng ? -> áp đặt, chiến tranh -> có hại

3.    Quyền lực mềm -> tạo hình ảnh quốc gia để quốc tế chấp nhận

4.    Kết hợp quyền lực cứng + mềm trong quan hệ quốc tế.

II.            VỊ TRÍ MÔN HỌC:

-       Kết cấu chính trị thay đổi

III.          Ý NGHĨA THỰC TIỄN

-       Hoàn thành môn học ngành HQH

-       Trật tự thế giới:

+ Mối quan hệ chặt chẽ giữa Riêng và Chung

VD: Lợi ích quốc gia dân tộc với toàn cầu

+ Mối quan hệ giữa cái PHỔ BIẾN với cái ĐẶC THÙ

ð HÀN QUỐC vận dụng Văn hóa, Chính trị, dân cư vào QHQT và vẫn thể hiện được quyền lực.

IV.         NÔI DUNG HỌC TẬP:

1.    Lý thuyết: Làm rõ khái niệm liên quan đến các bộ phận cấu thanh Trật tự TG và địa chinh trị’.

2.    Nội dung:

-       Ý nghĩa của địa chính trị như thế nào?

-        Hình thành nên chinh sách đối ngoại các nước ( vận dụng với từng quốc gia)

ð Xu hướng trật tự mới trong thời đại mới như thế nào?

ð Quyền lực mềm của Hàn Quốc? -> Han lưu.

-       Quan hệ Quốc tế:

+ Vấn đề thống nhất Bán đảo Triều Tiên

+ Triển vọng phát triển sau thống nhất với mô hình như thế nào?

 

 

 

? Xu hướng chính trị thế giới ?

+ Đơn cực

+ Hai cực

+ Đa cực

? Khái niệm địa chiến lược?

? Hệ thống  nghiên cứu ĐCL

? KN địa chính trị?

? Kinh nghiệm của Hàn Quốc tạo nên sự phát triển ngoạn mục?

+ Chế độ chinh trị độc tài

+ Chính sách đối ngoại khôn ngoan, linh hoạt

+ Phong trào Nông thôn mới -> Phát triển nông nghiệp C.Á + C.Phi

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

-Mô hình thống nhất của HQ?

+ Có các yếu tố : ai đấu tranh? Ai phản bộ ?

-Sự xếp loại của HQ:

+Là cường quốc tập trung?

+ Là Cường quốc? ( Anh, Nhật,..)

+ Là Siêu cường?

Tiêu chí:

+ Tìm đường quốc gia = diện tích lớn

+ dân số (đông + chất lượng dân số)

+ Tiềm năng quân sự ở mức nào?

+ Tài nguyên thiên nhiên ( dầu khí? …)

+ Khoa học công nghệ

+ Giáo dục tiên tiến

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*HQ:  GDP 1963 : HQ đói -> 1987,1991: Kinh tế phát triển-> GDP: 12,000usd

*Việt Nam: Mục tiệu 1986 -> 2045, GDP: 12,000usd

*** Lịch sử:

+HQ bị Nhật bản chiếm đóng 24 năm

+ HQ bị quân Mông Nguyên biến thanh Chư Hầu.

-Việt Nam bị TQ đô hộ 1000 năm + xâm lược.

 

 

 

 

VD: Đức 1989: Mô hình thống nhất:

+ Lợi ích chính trị -> sự phản bội

+ Nguyện vọng: thống nhất theo nguyện vọng thiết tha, chinh đáng.

 

Việt Nam 1945: + Thống nhất bằng ý chí đấu tranh manh liệt

 

è  

 

NỘI DUNG CHÍNH 2

GHI CHÚ

VÍ DỤ

Cấu trúc- bối cảnh thế giới để Hàn Quốc tham gia vào:

Thuyết trinh chủ đề 1: Xu hướng xác lập trật tự thế giới mới ngày nay.

1.    Khái niệm , quan niệm về trật tự thế giới, cục diện thế giới:

Trật tự thế giới:

-       Sơ đồ sắp xếp các chủ thể quốc tế hàng đầu theo quy mô quyền lực -> đưa ra ví dụ phân tích : hệ thống nguyên tắc -> các chủ thể quyền lực

2.    Xu hướng xác lập trật tự thế giới mới hiện nay:

-       Điều kiện hòan cảnh làm thay đổi TTTG: :

1.    Cách mạng khoa học công nghệ -> thay đổi trật tự thế giới

-       VD: Mỹ ném 2 quả om nguyên tử xuống Nhật Bản -> 2 năm sau Nga tuyên bố có vũ khí hạt nhân

-       Nước nào làm chủ công nghệ nhân tạo Ai thì làm chủ thế giới

2.    Xuất hiện một số cường quốc mới: Trung Quốc, Ấn Độ

3.    Kinh tế dịch chuyển:

Kinh tế châu Âu già nua -> chuyển sang Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương

4.    Thị trường mới xuất hiện -> liên kết liên minh, toan cầu hóa

3.    Trật tự thế giới về chinh trị

-       Ấn Độ sẽ chọn đơn cực hướng theo ai? Hay đa cực?

 

-       Câu hỏi đặt ra: Các điều kiện hình thanh xuất hiện xu hướng mới? Theo bạn điều kiện nào quan trọng nhất? cho ví dụ.

 

-       Hiện nay xuất hiện chủ thể cường quốc mới Trung-Nga có những lợi ích đồng thuận hoặc k đồng thuận -> liên minh Trung- Nga có tạo nên 1 trật tự TG mới k? hay chỉ là liên minh đồng sang – dị mộng?

 

-       Trong xu hướng trật tự mới này thì Việt Nam ở đâu?

 

-       Trong 4 xu hướng, xu hướng nào sẽ xuất hiện?

 

 

 

-        

Chủ thể: -> phân tích một vài chủ thể cơ bản.

 

-Trung Quốc ảnh hưởng như thế nào về Lào?

- Hàn Quốc là 1 trong chủ thể tham gia vào CA_ TBD

*** Lưu ý trình bày: Giới thiệu về lý thuyết/ học thuyết =>  thể hiện quan điểm cá nhân, trinh bày cái mới không nên cổ súy, tâng bốc vào sách.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mỹ chuyển sang chủ nghĩa dân tộc là như thế nào?

 

 

 

 

 

Giáo trình:

1.    Cục diện chinh trị Đông Á

Tóm tắt Luận văn Cục diện chính trị khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI - Tài liệu, ebook, giáo trình (doc.edu.vn)

2.Quan hệ quốc tế khu vưc châu Á – Thái Bình Dương

3. Nhật – Hàn

4. Văn hóa chính trị Triều Tiên.

 

 

 

 

 

 

 

VD: Mỹ giâu có nhờ buôn bán vũ khí ( Đan Mạch, Ba Lan gia nhập Nato cần phải mua vũ khí; lợi dụng năng lượng bằng cách tìm cách hạn chế nguồn cung từ châu Âu) => Mỹ không muốn chấm dứt chiến tranh Nga- Ucrana vì Mỹ hưởng lợi trực tiếp nhiều.

 

 

 

Nhiệm vụ Thư và Lan Anh:

I.              Lý thuyết địa chính trị

1.    Địa chính trị là gì ?

2.    Địa chính trị là lĩnh vực nghiên cứu về tác động của các yếu tố địa lý tới hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị xem xét việc các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, hay địa hình tác động như thế nào tới chính sách đối ngoại của một quốc gia và vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế.

3.    Khái niệm “địa chính trị” lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển Rudolf Kjellen vào năm 1899. Kjillen cho rằng các đặc điểm về kinh tế, chính trị và quân sự của một quốc gia bắt nguồn từ các yếu tố địa lý và môi trường của quốc gia đó. Các yếu tố địa lý này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển về kinh tế-xã hội và chính trị, đồng thời góp phần định hình bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Kjellen đặc biệt chú ý tới tác động của các đặc điểm địa lý như núi non và đại dương đối với sinh mệnh chính trị của các quốc gia.

4.    Đến đầu thế kỷ 20, khái niệm địa chính trị được phát triển thêm bởi nhà lịch sử hải quân người Mỹ Alfred Thayer Mahan (1840–1914) và nhà địa lý người Anh Halford John Mackinder (1861–1947). Cả hai ông đều cho rằng những cuộc đấu tranh địa chính trị quan trọng nhất nhằm giành vị trí bá quyền trong lịch sử đều diễn ra giữa các cường quốc hải dương và cường quốc lục địa. Điều này đã diễn ra từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với ví dụ điển hình là sự đối đầu giữa Athens, một cường quốc hải dương, và Sparta, một cường quốc lục địa, trong cuộc Chiến tranh Peloponnese. Mahan cho rằng nắm giữ một lực lượng hải quân hùng mạnh là chìa khóa để phát triển sức mạnh quốc gia. Những quốc gia kiểm soát được đại dương như nước Anh thời bấy giờ có vị thế áp đảo trong hệ thống quan hệ quốc tế. Ngược lại, năm 1939, Halford Mackinder lại lập luận trong thuyết về “vùng đất trung tâm” (Heartland theory) rằng quốc gia nào có thể kiểm soát được vùng lãnh thổ nằm giữa nước Đức và vùng Siberia sẽ có thể kiểm soát được thế giới.

 

a.     Quan điểm của Hàn Quốc về địa chính trị

b.    Quan điểm của Việt Nam về địa chính trị

II.           Địa chiến lược

+ So sánh quan điểm địa chiến lược tại Vn, Hàn Quốc, thế giới?

Tóm tắt: Địa chiến lược là sự cân nhắc chiến lược, là nghệ thuật kiểm soát và khai thác nhân tố địa lý (thường là của một quốc gia) kết hợp với môi trường, bối cảnh chính trị, kinh tế quốc tế đang thay đổi của giới cầm quyền trong hoạch định và thực thi chiến lược/chính sách phát triển quốc gia, trước hết là đối ngoại, sao cho những lợi ích của một quốc gia được đảm bảo để tăng thế và lực của mình trên trường quốc tế. Đây là một lĩnh vực khoa học nằm xen giữa nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn, có mối liên hệ chặt chẽ với địa chính trị, địa kinh tế, địa quân sự, nhưng không phải là sự nối dài của các bộ môn này.

 

1.    Tư tưởng và hành động địa chiến lược được hình thành từ bao giờ?

Từ thời cổ đại, cả ở Phương Tây và Phương Đông tư tưởng về địa chiến lược đã xuất hiện phổ biến.

+ Phương Tây: Trong cuộc chiến tranh quyền lực giữa hai quốc gia đô thị là Athens và Sparta, Thucydides - nhà sử học Hy Lạp cổ đại ở thế kỷ V trước CN trong cuốn sách “Lịch sử chiến tranh Peloponnese” của mình đã đề cập đến các mưu lược sử dụng nhân tố địa lý.

Cùng thời đó, Herodotus- một nhà sử học khác cũng là người Hy Lạp, đã mô tả sự xung đột giữa các nền văn minh giữa người Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp và cho rằng các nền văn minh và việc hoạch định chiến lược của một quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố địa lý trong cuốn sách “Lịch sử” (The History) của mình.

+ Phương Đông:  Từ thời cổ đại, trong Binh pháp Tôn Tử, Tôn Tử (Tôn Vũ) ở Trung Quốc, nhiều người cũng đã sử dụng cách tiếp cận địa chiến lược trong chinh phục Thiên hạ, nhất là trong việc kết hợp giữa thiên thời và địa lợi để thực hiện các mục tiêu chính trị, trước hết là về quân sự. Trong đó đã đưa ra năm nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của chiến tranh: Đạo, Thiên, Địa, Tướng, Pháp, trong đó “Đạo là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa”; “Thiên” là “thiên thời”, “Địa là địa lợi”, nói về đường sá, địa thế, địa hình...

Nhưng đến năm 1942, thuật ngữ “Địa chiến lược” (Geostrategy) mới xuất hiện lần đầu tiên.

Dần dần các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt trong giới học thuật mới bắt đầu sử dụng thuật ngữ này thường xuyên hơn.

2.    Vậy ai là người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng, quan điểm nghiên cứu và thực hành địa chiến lược?

Alfred Thayer Mahan (1840 - 1914), một sĩ quan hải quân Mỹ, một nhà địa chiến lược và sử gia, ông được coi là “một trong những nhà chiến lược quan trọng nhất của Mỹ trong thế kỉ XIX”, đã hệ thống hóa 6 thành tố cấu thành sức mạnh biển của mỗi quốc gia như:  vị trí địa lý, cấu tạo địa hình tự nhiên, quy mô lãnh thổ, quy mô dân số, đặc tính dân tộc và tính cách của chính quyền.

(Trong công trình “Ảnh hưởng của sức mạnh biển đối với lịch sử, giai đoạn 1660 - 1783” (The Influence of Sea Power upon History, 1660 - 1783) xuất bản năm 1890).

Trong cuốn: Vấn đề của Châu Á - Ảnh hưởng của nó đối với chính trị quốc tế” (The Problem of Asia: Its Effect upon international Politics, xuất bản năm 1900), tư tưởng địa chiến lược của ông lại được cập nhật và rõ nét hơn về phương pháp tiếp cận địa lý và chính trị quốc tế trong tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc lục địa và cường quốc biển.

Nhà địa lý học, chính trị học người Anh là Halford J. Mackinder (1861 - 1947), đã nhấn mạnh đến sự kết hợp và tương tác giữa các yếu tố, nhất là giữa nhân tố địa lý, lịch sử và tầm nhìn chiến lược quốc gia trong thực hiện mục tiêu địa chính trị, xuất hiện trong các công trình như “Trục địa lý của lịch sử” (The Geographical Pivot of History) xuất bản năm 1904, và đặc biệt trong cuốn sách “Lý tưởng dân chủ và hiện thực: Nghiên cứu về tái cơ cấu chính trị” (Democratic Ideals and Reality: A Study in the Politics Reconstruction) xuất bản năm 1919, đã đưa ra “Thuyết về miền đất trung tâm” (Heartland Theory), trong đó nhấn mạnh đến vùng trung tâm của lục địa Á - Âu và cho rằng: “Ai cai trị được Đông Âu thì sẽ khống chế được miền đất trái tim; Ai thống trị được khu vực trung tâm hay “miền đất trái tim” này thì sẽ thống trị được đảo thế giới (Mackinder coi Châu Á và Châu Âu là một lục địa lớn, là đảo của thế giới). Ai thống trị được đảo thế giới sẽ thống trị thế giới”.

Tiếp theo đó, Học giả, nhà địa chiến lược khác người Mỹ gốc Hà Lan, Nicolas J. Spykman (1893 - 1943), trong tác phẩm “Địa lý của hòa bình” (The Geography of the Peace) xuất bản năm 1944 cũng đã đưa ra học thuyết “Vành đai đất vùng ven” (Rimland), đã xây dựng và phát triển học thuyết về địa chính trị thông qua việc nhấn mạnh nhiều đến mối quan hệ giữa địa lý với lịch sử và chính trị trong tương tác quyền lực ở khu vực ngoại vi và trung tâm và có tư tưởng về địa chiến lược, nhất là trong việc phác thảo các thành tố cấu thành địa chiến lược và mưu lược sử dụng nhân tố địa lý kết hợp với bối cảnh lịch sử để đề ra chính sách đối ngoại.

George F. Kennan (1904 - 2005) là đại biện lâm thời của Mỹ tại Liên Xô trong năm 1946, hay còn gọi là “Người bày mưu đánh bại Liên Xô” đã hiện thực hóa các thuyết về địa chiến lược của Mỹ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay thông qua “Chiến lược Kìm chế” hay còn gọi là “Chiến lược Ngăn chặn”.

James Burnham (1905 - 1987) là một nhà lý luận chính trị nổi tiếng người Mỹ cùng thời với Spykman với đến quan điểm “Địa chiến lược tấn công” cho rằng, Liên Xô từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã có ưu thế trong việc chiếm giữ “miền đất trái tim” và kiểm soát được Đông Âu. Vì vậy, cách duy nhất để ngăn chặn khả năng thống trị thế giới của Liên Xô, trước hết là phải loại bỏ ảnh hưởng của nước này tại Đông Âu thay bằng ảnh hưởng của Mỹ.

Henry Alfred Kissinger sinh năm 1923, là nhà ngoại giao, địa chính trị, địa chiến lược gia hàng đầu người Mỹ gốc Do Thái - Đức. Trong thuyết  “Giảm căng thẳng và mở cửa Trung Quốc” được đề cập ở chương 28 của tác phẩm nổi tiếng “Thuật ngoại giao” (Diplomacy) xuất bản năm 1994, ông cho rằng, sự mở cửa Trung Quốc là nhằm làm thay đổi cán cân quyền lực trong hệ thống, từ một thế giới hai cực Mỹ - Xô sang Tam cực Mỹ - Trung - Xô, làm tan rã liên minh Xô - Trung, tiến tới giành ưu thế của Mỹ trên quy mô toàn cầu.

 Zbigniew Brzezinski- sinh năm 1928, người Mỹ gốc Ba Lan, là nhà địa chính trị, địa chiến lược nổi tiếng từ thời Chiến tranh Lạnh. Trong cuốn sách “Bàn cờ lớn” (The Grand Chessboard) xuất bản năm 1997, ông chia địa chính trị Á - Âu ra làm 4 khu vực, đó là: 1) Các nước dân chủ ở Châu Âu; 2) Nước Nga và các nước thù địch, các nước này được ông gọi là các nước hố đen (Black - hole countries); 3) Các nước Trung đông và vùng Ban Căng; 4) Các nước Viễn đông của Châu Á.

Trong cuốn sách tiếp theo “Sự lựa chọn: Thống trị toàn cầu hay lãnh đạo toàn cầu” (The Choice: Global Domination or Global Leadership) xuất bản năm 2004, ông đã cập nhật quan điểm của mình về địa chính trị thế giới và địa chiến lược, đưa ra các mưu lược để thực hiện mục tiêu địa chính trị.

Ray S. Cline - một học giả người Mỹ, Trong công trình “Sức mạnh tổng hợp quốc gia”, đã đưa ra 5 thành tố cấu thành sức mạnh tổng hợp quốc gia, đó là : 1) Đất nước (Country) gồm quy mô lãnh thổ, dân cư; vị trí địa lý; 2) Kinh tế (Economy) gồm thực lực, trong đó có GDP, cơ cấu kinh tế; 3) Quân sự (Military), gồm quy mô và thực lực quân sự; 4) Chiến lược (Strategy), trong đó phải có ý đồ chiến lược do lãnh đạo quốc gia vạch ra và 5) là Ý chí, tâm thức, bản lĩnh của một dân tộc (Will), bao gồm cả người dân và giới lãnh đạo.

 Joseph S. Nye, một học giả khác nổi tiếng của Mỹ, trong nhiều công trình đã phân loại hóa sức mạnh tổng hợp quốc gia ra thành hai loại “sức mạnh cứng” (hard power) và “sức mạnh mềm” (soft power). Theo ông, “sức mạnh cứng” là sức mạnh hữu hình, trong đó có yếu tố địa lý và “sức mạnh mềm” là chiến lược phát triển, là năng lực tư duy và hành động, khả năng thuyết phục chứ không phải là áp đặt hay cưỡng chế

 

3.    Vai trò của địa chiến lược nắm giữ vị thế như thế nào?

 

+ Các lý thuyết gia về sức mạnh quốc gia đều coi yếu tố địa lý là điều kiện tiên quyết, cái vốn ban đầu, nhưng lại nhấn mạnh tầm quan trọng của năng lực chiến lược của giới cầm quyền.

+ Các nhà lý luận mác-xít thường cho rằng, tư tưởng địa chính trị, địa chiến lược chỉ là những từ ngữ hào nhoáng đưa ra để biện hộ cho hành động xâm lược và bành trướng của chủ nghĩa đế quốc.

+ Nhiều nhà nghiên cứu về quan hệ quốc tế coi nhẹ, thậm chí phủ nhận địa chiến lược và họ cho rằng, địa chiến lược tạo nên sự phân cấp của hệ thống chính trị thế giới dựa trên chính trị cường quyền.

+ Một số khác lại đánh giá thấp vai trò của địa lý trong chính trị bởi những tiến bộ của công nghệ đã làm thay đổi tầm quan trọng của nó.

4.    Khái niệm địa chiến lược

+ Thuật ngữ địa chiến lược chỉ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1942 trong bài báo “Cùng tìm hiểu về địa chính trị” của nhà sử học và nghiên cứu chính trị quốc tế người Mỹ Frederick Lewis Schuman (1904 - 1981).

-       Địa chiến lược  có nghĩa là “địa chính trị phòng vệ” (một thuật ngữ bằng tiếng Đức là “Wehrgeopolitik” do nhà địa chiến lược - quân sự Karl Haushofer (1869 - 1946) đưa ra trước chiến tranh thế giới thứ hai)

-       Địa chiến lược  có nghĩa là “địa chính trị chiến tranh” (war-geopolitics) (nhà địa chính trị người Mỹ gốc Áo Robert Strausz-Hupé (1903 - 2002) dịch từ đó được giới thiệu, phổ biến khá rộng rãi ở Mỹ).

-       sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay:  địa chính trị là một khoa học, một hệ thống hiểu biết về kiểm soát không gian; nó nghiên cứu về sự vận động của không gian quyền lực của một quốc gia hay một chủ thể nào đó dưới tác động của yếu tố chính trị và địa lý.

-       James Rogers và Lui Simon trong bài viết “Đánh giá lại về Địa chiến lược Châu Âu”: Xuất bản năm 2010 cho rằng:

* “Địa chiến lược là chỉ việc thực thi quyền lực trong một không gian nhất định trên bề mặt trái đất, là mưu mẹo chính trị trong hệ thống toàn cầu,... địa chiến lược là sự tạo ra hay đảm bảo sự an toàn trong tiếp cận các tuyến thương mại chính, các điểm chiến lược của các vùng biển, con sông, hòn đảo, v.v.. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có năng lực quân sự lớn, có các cơ sở quân sự trên biển và sở hữu các tàu chiến hoạt động trên biển. Các cường quốc phải liên minh và hỗ trợ lẫn nhau, hoặc hợp tác với các “nhà nước trung tâm” tại các khu vực được coi là có vị trí đắc địa”.

=> Cách tiếp cận về địa chiến lược này (gần với quan điểm địa chiến lược biển đảo của Mahan như đã đề cập ở trên), nhấn mạnh đến yếu tố hải quân và sự hợp tác quốc tế trên biển.

- Học giả khác là Jakub J. Grygiel trong công trình “Các cường quốc và sự thay đổi trong địa chính trị” (Great Powers and Geopolitical Change) xuất bản năm 2006 lại cho rằng:

* “địa chiến lược phản ánh tính chất địa lý trong chính sách đối ngoại của một quốc gia. Chính xác hơn, địa chiến lược đề cập đến một khu vực, không gian nhất định, mà ở đó một quốc gia đang tập trung nỗ lực xây dựng sức mạnh quân sự và các hoạt động đối ngoại của mình. Nguyên nhân của việc tập trung này là các quốc gia có nguồn lực hạn chế, dù muốn cũng không thể triển khai chính sách trên diện rộng. Thay vào đó, họ phải tập trung sức mạnh chính trị và quân sự của mình vào một khu vực nhất định. Địa chiến lược phản ánh sức mạnh trong chính sách đối ngoại của một quốc gia chứ không mô tả quá trình hình thành, xây dựng chính sách. Tuy nhiên, địa chiến lược của một quốc gia cũng không nhất thiết phải được thúc đẩy bởi yếu tố địa lý hay động cơ địa chính trị. Thay vào đó, một quốc gia có thể hướng sức mạnh của mình tới một khu vực, lãnh thổ khác dựa trên các yếu tố như hệ tư tưởng, lợi ích nhóm hoặc đơn giản hơn chỉ là phục vụ cho ý chí của giới lãnh đạo” (Jakub J. Grygiel (2006), Great Powers and Geopolitical Change. Baltimore: The Johns Hopkins University Press, p. 23.)

=> . Như vậy, cùng với việc khẳng định địa chiến lược gắn liền với chính sách đối ngoại của một nhà nước, tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò của quân sự và ý chí chính trị của giới lãnh đạo trong hình thành địa chính trị của một quốc gia.

- “Các thuật ngữ địa chính trị, chiến lược và địa chiến lược được sử dụng để diễn tả các nội hàm khác nhau. Địa chính trị phản ánh sự kết hợp giữa yếu tố địa lý và chính trị trong xây dựng vị thế quốc gia hay khu vực, nhấn mạnh những ảnh hưởng của địa lý đối với chính trị. Chiến lược chỉ việc áp dụng một cách toàn diện, có kế hoạch và đưa ra các biện pháp nhằm đạt được một mục tiêu cốt lõi hoặc đối với các cơ sở quân sự quan trọng. Địa chiến lược là sự kết hợp của yếu tố chiến lược và địa chính trị”

(các định nghĩa về địa chiến lược có ý nghĩa của Zbigniew Brzezinski. Trong công trình “Kế hoạch ván cờ: Khuôn khổ Địa chiến lược cho việc chỉ đạo sự tranh giành quyền lực Mỹ - Xô” (Game Plan: A Geostrategic Framework for the Cunduct of US-Soviet Contest) xuất bản năm 1996- bigniew Brzezinski. “Game Plan: A Geostrategic Framework for the Cunduct of US-Soviet Contest”. Boston: The Atlantic Monthly Press. p. xiv. ISBN 0- 87113-084-X)

ð Brzezinski không coi địa chiến lược là sự kéo dài hay là một bộ phận của địa chính trị, mà là sự kết hợp giữa kế hoạch tổng thể có tầm chiến lược của một quốc gia với mục tiêu xác lập trật tự quyền lực trong một không gian địa lý được xác định của quốc gia đó

-       “Địa chiến lược và lòng chảo Biển Đông”. Ông cho rằng: “gần đây thuật ngữ địa chiến lược được sử dụng thường xuyên hơn trong văn nói, chỉ việc phân bổ diện tích đất liền và biển đảo trên toàn cầu, khoảng cách và năng lực các quốc gia tiếp cận các yếu tố địa lý trong quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách”. Một khái niệm hẹp hơn về địa chiến lược là: “Tập hợp các yếu tố địa lý có tác động lẫn nhau và có ảnh hưởng hoặc mang lại lợi thế cho đối thủ, hoặc can dự vào quá trình hình thành kế hoạch chiến lược cũng như các liên minh chính trị, quân sự”(24). Với định nghĩa này, địa chiến lược được hiểu ở trên hai khía cạnh, đó là năng lực tiếp cận của quốc gia các yếu tố địa trong hoạch định chính sách và sự tác động lẫn nhau của các nhân tố địa lý mang lại lợi thế hoặc thúc đẩy sự can dự của các chủ thể trong quan hệ quốc tế vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách, nhất là trong hình thành các liên minh quân sự và chính trị.

-       ( Lim Joo-Jock đưa ra trong công trình “Địa chiến lược và lòng chảo Biển Đông”)

Kết luận: địa chiến lược là sự kết hợp giữa cân nhắc chiến lược với địa chính trị, trong đó giá trị chiến lược của các nhân tố địa lý trong hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của một quốc gia và trong mối quan hệ của nó với quốc gia khác được xem xét một cách có hệ thống. (địa chiến lược là một bộ phận của địa chính trị(19), là một dạng của chính sách đối ngoại chủ yếu được hình thành dựa trên các yếu tố địa lý, và các yếu tố này đóng vai trò cung cấp thông tin, kìm chế, hoặc tác động vào quá trình hoạch định chính sách quân sự, chính trị của một quốc gia. So với các dạng chiến lược khác, thì địa chiến lược liên quan đến việc phát huy các nguồn lực của quốc gia để đạt được mực tiêu địa chính trị ở cấp quốc gia, khu vực hay toàn cầu)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét