VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN DƯỚI THỜI
TỔNG THỐNG SYNGMAN RHEE (1948-1960)
Nguyễn Lan Anh- 22831061401[1]
Tóm tắt (Abstract)
Từ khóa (Keywords)
Đặt vấn đề (Introduction)
Vấn
đề thống nhất bán đảo Triều Tiên là nỗi trăn trở của những nhà lãnh đạo trên
bán đảo suốt 70 năm qua (1953 ~ 2023). “Thống nhất” ở đây được hiểu là “ Một
chính sách nhằm hợp nhất hai miền Bắc và Nam Triều Tiên bị chia cắt về chính trị,
kinh tế và xã hội thành một đơn vị chính trị”. [2] Nhiệm vụ thống nhất bán đảo
là hệ quả tất yếu của việc bị chia cắt trong lịch sử. Việc chia rẽ bán đảo này đã gây ra
những tổn thất to lớn trong nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hóa, nghệ thuật và thể thao, ... Do đó, nếu bỏ qua tình trạng chia rẽ thì sẽ để
lại sự xấu hổ cho lịch sử.
Tuy nhiên, vấn đề
thống nhất hai miền Triều Tiên là một vấn đề phức tạp, không thể đạt được một
cách dễ dàng. Vì thế, các nhà lãnh đạo của Hàn Quốc đã không ngừng nỗ lực thúc
đẩy chính sách thống nhất liên triều. Đặc biệt, sự kiện ký kết Hiệp định đình chiến trong Chiến tranh Triều Tiên năm 1953
với thỏa thuận ngừng bắn, lấy vĩ tuyến 38 để làm ranh giới gắn liền với chính
quyền cựu tổng thống Syngman
Rhee thời kỳ đầu. Sự kiện lịch sử này cũng là thời điểm lần đầu tiên bán đảo
Triều Tiên bị chia cắt và lý thuyết thống nhất giữa hai miền Triều Tiên cũng
chính thức được đưa ra.
Vì vậy, tiểu luận sẽ tập trung nghiên cứu “Vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên dưới thời
Tổng thống Syngman Rhee (1948-1960)” với mục đích làm sáng tỏ những vấn đề như
sau: Cục diện quốc tế, khu vực Đông Bắc Á
và tình hình bán đảo Triều Tiên thời điểm sau năm 1945 như thế nào? Nguyên nhân
chia cắt bán đảo là gì? Những tác nhân nào ảnh hưởng đến vấn đề chia cắt và
thống nhất bán đảo Triều Tiên? Quan điểm và chính sách thống nhất bán đảo Triều
Tiên của Tổng thống Syngman
Rhee? Từ đó, đề tài sẽ phân tích tư tưởng và
đánh giá tính khả thi của vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên dưới thời kỳ
đương nhiệm của cựu tổng thống Syngman
Rhee giai đoạn 1948 ~ 1960.
Tổng quan nghiên cứu (Literature
Review)
Phương pháp nghiên cứu
(Methods)
Xem xét tình hình bán
đảo Triều Tiên trong mối quan hệ với khu vực đông bắc Á và lịch sử quốc tế.
Kết quả nghiên cứu (Results/
Findings)
1. Cục
diện quốc tế, khu vực Đông Bắc Á và tình hình bán đảo Triều Tiên từ 1945 đến nửa
đầu những năm 1970
a. Cục diện quốc tế:
Đầu năm 1945, Chiến
tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Nhiều mâu thuẫn tranh chấp
trong nội bộ phe đồng minh chống phát xít nổi lên gay gắt với ba vấn đề bức xúc
cần giải quyết: Thứ nhất, nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở châu Á và châu Á-
Thái Bình Dương; Thứ hai, tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh; Thứ ba,
phân chia lại khu vực đóng quân theo chế độ quân quản ở các nước phát xít chiến
bại và phân chia phạm vi thế lực giữa các nước tham gia chiến tranh chống phát
xít.
Ngày 4 đến 12-2-1945,
tại Yalta (Liên Xô), Hội nghị tam cường Liên Xô, Mỹ, Anh [3]
đã diễn ra gay cấn, quyết liệt để đạt thỏa thuận tranh giành và phân chia lợi
ích sau khi tham chiến. Sau đó, Hội nghị đi đến những quyết định sau: Thống nhất
mục tiêu tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật,
nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở châu Âu, và Liên Xô sẽ trực tiếp tham gia
chiến tranh chống Nhật ở châu Á- Thái Bình Dương; Ba cường quốc thống nhất
thành lập tổ chức Liên hợp quốc [4]dựa
trên nền tảng và nguyên tắc nhất trí giữa năm cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp
và Trung Quốc để giữ hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau chiến tranh. Cuối
cùng, để giải giáp quân đội phát xít và phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu
và châu Á, thống nhất phân chia đóng quân và sở hữu như sau: Liên Xô chiếm đóng
miền Đông Đức, Đông Béclin, các nước Đông Âu, miền Bắc Triều Tiên, Mông Cổ, miền
nam đảo Xakhalin cùng các đảo nhỏ; còn Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng miền Tây Đức,
Tây Béclin, Italia, một số nước Tây Âu khác và Áo, Phần Lan sẽ là hai nước
trung lập. Riêng Mỹ chiếm đóng Nhật Bản và Nam Triều Tiên lấy vĩ tuyến 38 làm
ranh giới. Và các vùng còn lại như Đông Nam Á, Tây Á, Nam Á,… vẫn thuộc phạm vi
ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây.
Hội nghị cấp cao Yalta
vào tháng 2 năm 1945 trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới- “ Trật tự
hai cực Yalta”, hay còn gọi là hai cực Mỹ và Liên Xô.
Vào ngày 15 tháng 8
năm 1945, Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc bằng tuyên bố đầu hàng của Nhật
Bản. Cuộc chiến đã làm thay đổi sâu sắc cục diện chính trị toàn cầu. Đức, Pháp,
Anh và Nhật mất đi sức mạnh chính trị hàng đầu. Các nước Đông Âu chuyển thành vệ
tinh của hệ thống Xô viết. Còn Mỹ lợi dụng ưu thế về kinh tế, quân sự của mình
để bành trướng thế lực ở Viễn Đông, và không tuân thủ cam kết trong các hội nghị
quốc tế trước đó. Âm mưu bành trướng vươn ảnh hưởng ra khắp thế giới, trở thành
siêu cường của Mĩ gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của Liên Xô khiến tình hình Viễn
Đông trở nên căng thẳng, phức tạp hơn. Tại Mátxcơva từ ngày 16 đến 26-12-1945,
hội nghị ngoại trưởng các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc được diễn ra để
thảo luận các vấn đề Viễn Đông. Trong đó, nội dung quan trọng được nhấn mạnh là
mọi vấn đề đều do Ủy ban Viễn Đông cùng nhau quyết định thông qua với đa số phiếu
nhưng nhất thiết phải có sự đồng ý của bốn cường quốc: Liên Xô, Mỹ, Anh và
Trung Quốc.
Mặt khác, trật tự hai
cực Yalta mở ra thời kỳ chiến tranh lạnh hàng thập kỷ giữa Liên Xô và Mỹ, giữa
hai khối Đông và Tây. Trong đó, Liên Xô đại diện cho phe Xã hội chủ nghĩa, luôn
làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp đấu
tranh vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ. Ngược lại, Mỹ đại diện cho phe Tư bản chủ
nghĩa luôn ra sức cấu kết, lôi kéo, giúp đỡ các thế lực chống phá cách mạng với
mưu đồ vươn lên vị trí siêu cường thống trị thế giới.
b. Bối
cảnh Khu vực Đông Bắc Á
Đông Bắc Á là khu vực
nằm ở rìa phía đông lục địa châu Á, gồm các quốc gia: Trung Quốc, Nhật Bản, bán
đảo Triều Tiên. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Á nói chung và Đông Bắc
Á nói riêng luôn trở thành khu vực địa- chính trị quan trọng liên quan đến an
ninh khu vực, quốc tế và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc đối đầu gay gắt giữa
hai cường quốc Liên Xô- Mỹ.
Nhật Bản là nước bị
thua trận, chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai quả bom nguyên tử của Mỹ[5]. Chủ quyền của Nhật chủ yếu gói gọn trong bốn
đảo: Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku; lượng vũ trang và quân đội Nhật buộc
phải giải giáp; Kinh tế bị ràng buộc với điều kiện chỉ được phát triển công
nghiệp hòa bình[6]. 30%
dân số không có nhà ở, 6 triệu người lính và dân thường từ khắp các vùng chiến
sự ở Thái Bình Dương quay trở về Nhật. 66 thành phố chính bị tàn phá nặng nề,
cuộc sống ở khu vực nông thôn chỉ còn tương đương 65% so với trước chiến tranh.
Tại Tokyo, 65% các khu vực dân cư bị phá hủy hoàn toàn, con số này tại các
thành phố Osaka, Nagoya (thành phố lớn thứ 2 và thứ 3 tại Nhật ở thời điểm đó)
lên đến 57% và 89%.
Trung Quốc có diện
tích bằng ¼ châu Á, chiếm gần ¼ dân số thế giới với chiến thắng cách mạng dân tộc
dân chủ đã tuyên bố thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào ngày 1-10-1949. Sự
kiện này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, và mở
rộng nối liền hệ thống xã hội chủ nghĩa từ châu Á sang châu Âu. Trung Quốc bước
vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, nỗ lực vươn lên xây dựng đất nước từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với tinh thần “Sẽ không bao giờ nữa người Trung Quốc chịu làm nô lệ”
của Mao Trạch Đông, cùng với sự hỗ trợ của Liên Xô, Trung Quốc đã có những tiến
bộ to lớn về kinh tế, văn hóa giáo dục. Đồng thời Trung Quốc nỗ lực thực hiện
đường lối ngoại góp phần củng cố hòa bình và thúc đẩy sự phát triển của cách mạng
thế giới. Nhờ vậy, địa vị của Trung Quốc được nâng cao trên trường quốc tế.
c. Tình hình Bán đảo Triều Tiên
Vào
ngày 15 tháng 8 năm 1945, quân đội Liên Xô đã cùng nhân dân bán đảo Triều Tiên
tiêu diệt quân đội Quan Đông của phát xít Nhật, chính thức thoát khỏi ách thống
trị của thực dân Nhật Bản. Trong tháng 8 và 9 năm 1945, nhân dân hai miền Nam Bắc
nổi dậy lật đổ các thế lực phản động , thành lập các ủy ban nhân dân.
Theo
thỏa thuận trong Hội nghị Yalta (tháng 2- 1945), cùng với thỏa thuận bí mật của Hội nghị Potsdam (ngày
26-7-1945), Mỹ và Liên Xô lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới tạm thời chia cắt bán đảo
Triều Tiên thành hai miền: miền Bắc thuộc quyền quân quản của Liên Xô, còn miền
Nam là miền quân quản của Mỹ. Ủy ban hỗn hợp gồm đại biểu của hai bộ tư lệnh quân
đội Liên Xô và Mỹ đóng ở bán đảo sẽ giúp thành lập một chính phủ lâm thời. [7]
Tuy nhiên, do sự bất đồng quan điểm của Mỹ - Liên Xô đã dẫn đến sự bế tắc trong
việc thành lập chính phủ lâm thời ở bán đảo. Vì vậy, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
đã quyết định lập một “Ủy ban tạm thời của Liên Hợp quốc về Triều Tiên”, [8]có
nhiệm vụ tạo điều kiện cho việc thành lập chính phủ toàn quốc sau tuyển cử và
thúc đẩy nhanh chóng việc rút quân đội chiếm đóng. Tuy nhiên, Ủy ban này chỉ thực
hiện tổng tuyển cử ở miền Nam bán đảo vào ngày 10-5-1948, với số phiếu cao dành
cho Syungman Rhee. Một chính phủ mới được thành lập tại miền Nam bán đảo Triều
Tiên với tên nhà nước “Đại Hàn dân quốc” (Hàn Quốc). Sự công nhận của cộng đồng
quốc tế đối với Đại Hàn Dân Quốc là gần 30 quốc gia tiếp tục cho đến khi Chiến
tranh Triều Tiên bùng nổ vào năm 1950. Cùng lúc đó, ở Bắc Triều Tiên, “Hội đồng
nhân dân Bắc Triều Tiên” được triệu tập và lập ra Ủy ban chấp hành do tướng Kim
II Sung (Kim Nhật Thành) làm chủ tịch. Ngày 9-9-1948, tuyên bố thành lập Cộng
hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên). Ngay sau đó, Liên Xô,
Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu công nhận CHDCND Triều Tiên.
Tháng 12 năm 1948, Ủy
ban thường trực của Liên hợp quốc về Triều Tiên thay thế cho Ủy ban tạm thời
trước đó. Đồng thời, Liên Xô tuyên bố rút quân chiếm đóng khỏi Bắc Triều Tiên.
Tháng 6 năm 1949, Mỹ cũng tuyên bố rút quân, chỉ để lại phái bộ quân sự khoảng
500 người ở Nam Triều Tiên. [9]
Tuy nhiên, ranh giới quân sự vô hình với hai hướng phát triển trái ngược nhau của
chính phủ độc lập trên hai miền bán đảo đã dẫn tới cuộc nội chiến từ 1950 ~
1953.
Ngày 25 tháng 6 năm
1950, Bắc Triều Tiên mở cuộc tấn công áp đảo và bất ngờ trên vĩ tuyến 38. Quân
đội Syungman Rhee thiếu sức mạnh và được trang bị kém, được huấn luyện chủ yếu
cho các hoạt động chống du kích, buộc phải rút lui xuống Daegu. Liên Hợp Quốc
nhanh chóng quyết định hỗ trợ quân sự cho Đại Hàn Dân Quốc, và Bộ Tư lệnh Liên
Hợp Quốc (UNC) được thành lập. Quân đội từ 15 quốc gia, bao gồm Mỹ, Anh, Pháp,
Canada, Úc, Philippines và Thổ Nhĩ Kỳ đã đến Hàn Quốc để sát cánh chiến đấu với
Quân đội Hàn Quốc dưới lá cờ của Liên Hợp Quốc.[10]
Ngày 15-9-1950, dưới
sự chỉ huy của Tư lệnh Liên Hợp Quốc
MacArthur, quân đội Liên Hợp Quốc đổ bộ vào cảng Nhân Xuyên, sau đó tiến
quân đánh chiếm miền Bắc đến tận sông Áp Lục, giáp ranh giới Trung Quốc.
Ngày 25-10-1951, Trung
Quốc phái quân chí nguyện sang “kháng Mỹ, viện Triều”. Quân đội Triều- Trung đã
đẩy lùi quân đội Mỹ khỏi Bắc vĩ tuyến 38.
Tháng 7-1951, cuộc
đàm phán về ngừng bắn được bắt đầu với đại diện của hai miền, Mỹ và Trung Quốc.
Đến tháng 7- 1953, Hiệp định đình chiến
mới được ký kết tại Bàn Môn Điếm, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự giữa
hai miền Nam – Bắc Triều Tiên. Một khu phi quân sự rộng 4km chính thức ngăn
cách quân đội hai bên. Và hai quốc gia trên bán đảo Triều Tiên đi theo hai đường
lối chính trị, phát triển kinh tế khác nhau. Cuộc chiến tranh Triều Tiên kéo
dài 1.129 ngày (25/6/1950 - 27/7/1953) đã để lại nhiều mất mát, hao tổn nặng nề.
Hàn Quốc có hơn 138.000 quân hy sinh, 450.000 người bị thương. Nếu tính cả số
lính mất tích trong cuộc chiến, tổng số thương vong của Hàn Quốc lên đến
621.000 người. Về phía Bắc Triều Tiên, tổng số quân thiệt mạng và bị thương là
520.000 người, con số thương vong là 800.000 tính cả người mất tích. Thiệt hại
của liên quân Liên hợp quốc cũng nặng nề không kém với 41.000 lính hy sinh,
104.000 quân bị thương, tính cả lính mất tích và tù nhân chiến tranh là 155.000
người. Chưa dừng lại ở đó, số dân thường thương vong còn nhiều hơn binh lính.
Hơn 1 triệu người dân Hàn Quốc đã thiệt mạng, bị thương và mất tích, về phía Bắc
Triều Tiên là 1,55 triệu người. Tóm lại, ước tính tổng số nạn nhân chiến tranh
bằng một phần năm tổng dân số của hai miền lúc bấy giờ.
Ngoài tổn thất về người,
chiến tranh Triều Tiên còn gây thiệt hại lớn về kinh tế. 43% cơ sở công nghiệp
và 50% cơ sở khai thác than của Hàn Quốc đã bị phá hủy, tổng giá trị thiệt hại
lên đến hơn gần 2,3 tỷ USD.
Cuộc nội chiến cũng
khiến 10 triệu thành viên các gia đình bị ly tán, 300.000 phụ nữ mất chồng,
100.000 người mất cha mẹ, và bán đảo Hàn Quốc vẫn bị coi là "đất nước bị
chia cắt duy nhất trên thế giới".[11]
2. Nguyên nhân chia cắt bán đảo Triều Tiên?
Nhìn từ bối cảnh quốc
tế, khu vực Đông Á, Đông Bắc Á có thể thấy rằng chia cắt bán đảo Triều Tiên xuất
phát từ yếu tố nội tại trên bán đảo cùng với yếu tố khách quan bên ngoài.
2.1. Nguyên nhân chủ
quan
Sự phân chia của Bắc
và Nam Triều Tiên bắt đầu khi bị Nhật Bản chiếm đóng và cai trị bán đảo Triều
Tiên suốt 40 năm (1905 ~ 1945). Dựa vào sức mạnh quân sự này, Nhật buộc vua
Gojong cung cấp cho Nhật Bản mọi tiện ích, bao gồm cả mục đích quân sự, nhiều đất
đai và nhân lực cũng được trưng dụng. Đồng thời, bán đảo Triều Tiên bị Nhật Bản
xâm phạm tất cả các quyền dân tộc bao gồm chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại
giao và bị suy thoái thành một quốc gia chỉ có danh xưng chính thức, chịu đủ mọi
tủi nhục và thiệt hại. Từ đó cho thấy, người dân Hàn Quốc đã bỏ lỡ cơ hội phát
huy năng lực tự cường dân tộc khi phải chịu ách thống trị của các thế lực ngoại
bang trong suốt 40 năm, dẫn đến việc để cho cộng sản xâm lược ngay sau khi Nhật
Bản chấm dứt ách thống trị.
Tiếp theo, việc sáp
nhập bán đảo Triều Tiên vào Nhật Bản đã tạo cớ cho các cường quốc láng giềng
khác can thiệp vì lợi ích của họ ở Bán đảo Triều Tiên.
Mặt khác, bi kịch nội
chiến kết thúc sau ba năm, khiến nội bộ bán đảo Triều Tiên gặp phải sự mâu thuẫn
về hệ tư tưởng giữa một nền dân chủ mạnh mẽ ở Hàn Quốc (Nam Triều Tiên),và tư
tưởng chủ nghĩa cộng sản ở Bắc Triều Tiên.
2.2. Nguyên nhân
khách quan
Sự chia cắt bán đảo
Triều Tiên bắt đầu khi bị thế lực nước ngoài như Mỹ- Liên Xô phân chia, chiếm
đóng và cai trị nó dưới chế độ ủy thác, tạo ra các chính phủ độc lập giữa hai
miền Triều Tiên.
Trước đó, sự bành trướng
chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản gây ra chiến tranh ở Thái Bình Dương đã dẫn đến các
cường quốc tham gia vào cuộc chiến chống phát xít tuyên bố khẳng định: “người
dân Triều Tiên hiện đang là nô lệ, chúng tôi quyết tâm biến Triều Tiên trở
thành một quốc gia tự do và độc lập trong tương lai.” Đây là tuyên bố đầu tiên
đảm bảo nền độc lập của Hàn Quốc trên trường quốc tế và gây ra sự can thiệp của
các cường quốc vào bán đảo này.
Mở đầu, là sự tham
gia của Liên Xô vào bán đảo Triều Tiên sau Hội nghị Yalta (tháng 2 năm 1942) [12]
được đề cập ở phần đầu, với những thỏa thuận lợi ích được chia sau tham chiến chống
phát xít Nhật có liên quan đến Triều Tiên. Sau đó là thỏa thuận bí mật giữa Mỹ
- Liên xô tại Hội nghị Potsdam (26.7.1945) với phân chia chiếm đóng hai miền
trên bán đảo lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Điều này cuối cùng đã trở thành một
nguyên nhân chính của sự phân chia Nam và Bắc Triều Tiên cho đến ngày nay.
Theo hồ sơ của Bộ Ngoại
giao Mỹ, khi Nhật Bản thông báo cho các Lực lượng Đồng minh về ý định đầu hàng
vào ngày 10 tháng 8, Ủy ban Điều phối Liên quân Lục quân và Hải quân (SWNCC) của
Bộ Ngoại giao Mỹ đã chuẩn bị kế hoạch chia cắt và chiếm đóng vĩ tuyến 38 vào
ngày 13 tháng 8 và đề xuất với Tổng thống Truman, và Tổng thống Truman đã chấp nhận.
Đồng thời, bí mật này cũng được thông báo với Liên Xô và được Liên Xô trả lời chấp
nhận ngay vào hôm sau. Thỏa thuận giữa Mỹ và Liên Xô về đường phân chia Bán đảo
Triều Tiên tuân theo kế hoạch chia và chiếm Bán đảo Triều Tiên đã thống nhất giữa
Mỹ và Liên Xô tại Hội nghị thượng đỉnh các cường quốc đồng minh Potsdam và Hội
nghị Bộ trưởng Ngoại giao tại cuộc họp vào ngày 26 tháng 7. Và chính thức, Bộ
Tư lệnh Viễn Đông Mỹ của MacArthur tuyên bố chia cắt và chiếm đóng vĩ tuyến 38
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Sau đó, để thảo luận về giải pháp ủy thác của Hội
nghị ba giai đoạn ở Mát-xcơ-va [13]Ủy
ban hỗn hợp Mỹ-Xô lần thứ nhất (tháng 3 năm 1946) đã được tổ chức, nhưng nó đã
bị phá vỡ do những bất đồng về vấn đề mời các nước tham gia và sự đối đầu gay gắt
giữa cánh tả ở Bắc Triều Tiên (Kim II
Sung) và cánh hữu cực đoạn ở Nam Triều Tiên (Syngman Rhee) làm gia tăng gây gắt
cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô. Ủy ban Hỗn hợp Mỹ-Xô lần thứ 2
(21-5-1947) cũng lại bị phá vỡ, và khi tình hình leo thang dẫn đến việc thành lập
một chính phủ Nam Triều Tiên duy nhất và chia cắt hai miền Nam-Bắc, một cuộc họp
chung đã được tổ chức với đại diện của các đảng phái chính trị và các nhóm xã hội
ở Bắc và Nam Triều Tiên. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán liên Triều (Nam và Bắc
Triều Tiên, ngày 28 tháng 4 năm 1948) đã kết thúc trong thất bại do hai miền
Nam và Bắc thành lập một chính phủ duy nhất không thực tế.
Trong khi đó, sau sự
sụp đổ của Ủy ban hỗn hợp Mỹ-Liên Xô lần thứ nhất, Mỹ đã trình bày vấn đề Triều
Tiên trước Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 2 (Paris, 1847). Tuy nhiên điều
này lại bị hủy bỏ do Liên Xô từ chối vì không tin tưởng Mỹ. Lúc này, cũng là thời
điểm lộ rõ tham vọng xâm lược miền Nam của Liên Xô.
Cuối cùng, trong cuộc
nội chiến, sự tham gia chi viện của Trung Quốc – đồng minh của Liên Xô ở miền Bắc
và tích cực hỗ trợ của Mỹ ở miền Nam cũng như hậu quả chiến tranh đã gieo vào
lòng người dân về niềm tin rằng Mỹ là vị cứu tinh và ân nhân của Đại Hàn Dân Quốc
và liên minh với Mỹ được chấp nhận như một yếu tố thiết yếu cho an ninh quốc gia.
Đồng thời thành tư tưởng chống cộng, chống chủ nghĩa cộng sản mãnh liệt từ phía
Nam bán đảo. Cùng với đó, cuộc chiến tranh khốc liệt đã khiến nền kinh tế Hàn
Quốc đã mất khả năng tăng trưởng độc lập, buộc phải dựa trên viện trợ kinh tế từ
Mỹ. Ngược lại, ở Bắc Triều Tiên cũng gánh chịu hậu quả nặng nề sau chiến tranh,
đồng thời bị cô lập. Vì vậy, phía Bắc càng phụ thuộc vào Liên Xô và Trung Quốc.
Ngoài ra, Mỹ đã gieo
rắc một nền dân chủ mạnh mẽ hơn ở Hàn Quốc, và Liên Xô đã gieo rắc chủ nghĩa cộng
sản ở Bắc Triều Tiên đặt bán đảo trong tình thế khó khăn đối mặt với vấn đề đối
đầu về ý thức hệ.
Tóm lại vấn đề chia cắt
của bán đảo Triều Tiên giai đoạn đầu là hệ quả của cuộc chiến tranh Lạnh, với sự
đối đầu căng thẳng và nằm trong sự tính toán của hai nước lớn là Liên Xô và Mỹ.
3. Quan điểm và chính sách thống nhất bán
đảo Triều Tiên của Tổng thống Syngman Rhee?
3.1. Sơ lược về tổng thống Syngman Rhee
Syngman Rhee sinh năm
1875 mất năm 1965. Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc được tiếp thu nền
giáo dục cổ điển truyền thống và sớm tiếp thu tư tưởng phương Tây. Sau đó, ông
vào trường Giám lý để học tiếng Anh. Ông vừa là một người theo chủ nghĩa dân tộc
nhiệt thành vừa là tín đồ của Cơ đốc giáo. Lớn lên trong tình hình loạn lạc do
chiến tranh, ông đã cùng bạn bè thành lập Câu lạc bộ Độc lập, không ngừng đấu
tranh cho nền độc lập bán đảo Triều Tiên và bị bắt. Sau khi được thả ra vào năm
1904, ông đến Mỹ học tập và nhận bằng tiến sĩ năm 1910. Cùng năm, ông về Hàn Quốc.
Năm 1919, Syungman Rhee được bầu làm chủ tịch của "Chính phủ lâm thời Hàn
Quốc" lưu vong ở Washington. Ông trở thành nhà lãnh đạo Triều Tiên nổi tiếng
nhất trong Thế chiến thứ hai và vận động mạnh mẽ cho chính sách độc lập và thống
nhất ngay lập tức cho Bán đảo Triều Tiên. Năm 1948, Syungman Rhee giành chiến
thắng trong cuộc bầu cử với 180 trong số 196 phiếu ủng hộ và trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc
(1948 ~1960).
Ngay từ khi còn hoạt
động ở Mỹ, Syngman Rhee là một người kiên quyết chống phe chủ nghĩa cộng sản.
Ông tin rằng thỏa hiệp hoặc cùng tồn tại với chủ nghĩa cộng sản là không thể.
Ông chủ trương thành lập một chính phủ duy nhất ở miền Nam bán đảo Triều Tiên
(Hàn Quốc ngày nay) bất chấp sự chỉ trích. Tư tưởng này thống nhất xuyên suốt từ
trước chiến tranh Triều Tiên (1950 -`1953) đến tận những năm 1960.
3.2. Quan điểm thống nhất bán đảo Triều Tiên
dưới thời tổng thống Syngman Rhee (1948 -1960)
Sau sự kiện phân chia
tạm thời bán đảo Triều Tiên thành hai miền Bắc và Nam dưới sự quân quản của
Liên Xô và Mỹ theo thỏa thuận trong Hội nghị
Yalta (tháng 2- 1945) và Hội nghị Potsdam (ngày 26-7-1945) trước đó, hai
miền bán đảo phát triển với hai đường lối chính trị và kinh tế trái ngược nhau.
Đặc biệt, sau Hiệp định đình chiến năm 1953, hai chính phủ riêng biệt được
thành lập ở hai miền với tên gọi là Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (CHDCND
Triều Tiên, 9/9/1948) theo chế độ chủ nghĩa cộng sản và Đại Hàn dân quốc (Hàn Quốc,
15/8/1948) với chế độ dân chủ tự do. Trong khi chấm dứt các hoạt động quân sự quy mô lớn trên
bán đảo, cả hai nhà lãnh đạo Triều Tiên và Hàn Quốc tiếp tục lên kế hoạch thống
nhất đất nước theo hệ thống chính trị tương ứng của họ. Tổng thống Hàn
Quốc Rhee Syngman không ngừng ủng hộ việc tiến lên phía Bắc [14]để
thống nhất bán đảo Triều Tiên, ngược lại nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Il Sung lại
thúc đẩy phát triển kinh tế để phục vụ như một thỏi nam châm thu hút người Hàn
Quốc nhằm cộng sản hóa Hàn Quốc.
Mặc
dù, “Lý thuyết thống nhất Bắc tiến” [15]là một đường lối cứng rắn của
tổng thống Syngman Rhee từ trước nội chiến Triều Tiên, nhưng vào tháng 6 năm
1949, khi Mỹ rút lui chỉ để lại khoảng 500 cố vấn quân sự nên quân đội Hàn Quốc
ở mức rất yếu về nhân lực, trang bị và huấn luyện. Vì vậy, kế hoạch tấn công
lên miền Bắc chỉ dừng lại ở mục đích chính trị, cụ thể lý thuyết này cố
gắng kiềm chế Triều Tiên bằng cách phô trương ý chí và sự tự tin bất tử đối với
chiến tranh của chính quyền tổng thống Syngman Rhee. Đồng thời, đây là sản phẩm của
chính sách chiến lược của chế độ Syngman Rhee nhằm thu hút sự
chú ý của Mỹ và yêu cầu Mỹ đảm bảo an ninh Hàn Quốc bằng nhiều viện trợ cả về mặt
tài chính lẫn quân sự hơn[16]
Vào những năm 1950,
chính phủ Syngman Rhee đã tiến hành “thống nhất bằng vũ lực” và thậm chí xử tử
những người nhất quyết thống nhất trong hòa bình. Cùng với việc các lực lượng Liên Hợp Quốc chính thức tiến
quân tới Triều Tiên và chiếm đóng lãnh thổ Triều Tiên đã trở thành cơ hội để
chính sách thống nhất của chính phủ Hàn Quốc thành hiện thực.
Ngày
1/10/1950, Tổng thống Syngman Rhee đã
trình bày 4 điều kiện để thống nhất bán
đảo Triều Tiên với Tổng thư ký Liên hợp quốc, đó là: hai miền Triều Tiên nên
được thống nhất dưới một chính phủ duy nhất; quân đội Bắc Triều Tiên nên ngay lập
tức hạ vũ khí và đầu hàng; lực lượng Liên Hợp Quốc nên ngay lập tức đóng quân
trên bán đảo Triều Tiên cho đến khi hòa bình được bảo đảm, và Liên Hợp Quốc nên
cung cấp hỗ trợ tài chính cho Hàn Quốc.[17]
Tuy
nhiên, chính
sách thống nhất mà chính phủ Hàn Quốc theo đuổi tiếp tục gây mâu thuẫn với Liên
Hợp Quốc. Vào ngày 13 tháng 10 năm 1950, Ủy ban lâm thời của Liên hợp quốc về
các vấn đề Triều Tiên đã tuyên bố rõ ràng rằng mọi hoạt động sẽ không được đặt
dưới sự kiểm soát của chính phủ Hàn Quốc mà phải dưới sự kiểm soát của Bộ Tư lệnh
Liên hợp quốc cho đến khi tổng tuyển cử được tổ chức để thành lập một chính phủ
thống nhất. Ngoài ra, Tư lệnh MacArthur được lệnh giới hạn thẩm quyền của
chính phủ Nam Triều Tiên ở phía Nam vĩ tuyến 38 và thành lập một tổ chức hành
chính tư nhân mới ở Bắc Triều Tiên.
Tình
hình bán đảo Triều Tiên ngày càng sa lầy với những thiệt hại nặng nề cho Liên Hợp
quốc và hai bên. Đặc biệt khi có sự tham chiến nhiệt huyết của Trung Quốc đe dọa
dẫn đến một cuộc chiến tranh tổng lực. Vì vậy, Mỹ kêu gọi tham gia các cuộc đàm
phán. Phe cộng sản phía Triều Tiên nhận ra rằng họ không có cơ hội chiến thắng
do bị thiệt hại nặng nề bởi ưu thế trên không của lực lượng LHQ, mà còn thấy họ
phải gánh chịu thiệt hại nặng nề về kinh tế. Từ tháng 3/1953, các cuộc đàm phán
đình chiến tiến triển nhanh chóng nhưng gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của chính
phủ Hàn Quốc. Syngman Rhee tuyên bố rằng hiệp định đình chiến là một loại hành
động tự sát và ông sẽ tiến hành cuộc chiến
với quân đội Triều Tiên nếu cần thiết. Nhân dân Hàn Quốc cũng ủng hộ chính sách
thống nhất đất nứớc và phản đối hiệp định đình chiến. Quyết định ban đầu của Đại Hàn Dân Quốc là không chấp nhận
ngừng bắn hay đình chiến miễn là những người cộng sản Trung Quốc vẫn còn ở Hàn
Quốc. Theo tài liệu Bản ghi nhớ bí mật viết vào ngày 3 tháng 8 năm 1953 của
Viện Syngman Rhee, Đại học Yonsei, trước khi đồng ý với Hiệp định đình chiến,
Tổng thống Syngman Rhee đã thông báo không trì hoãn chính sách tiếp tục chiến
tranh của mình quá lâu, nếu Mỹ không đáp ứng các điều kiện: Hoa Kỳ sẽ đồng ý
nối lại chung cuộc chiến với Hàn Quốc, trong trường hợp hội nghị chính trị
không đạt được sự thống nhất lại, hoặc ít nhất hứa sẽ hỗ trợ về mặt đạo đức và
vật chất cho nỗ lực quân sự đơn phương của Hàn Quốc; và Hoa Kỳ sẽ đàm phán với
Hàn Quốc về một hiệp ước an ninh chung có chứa sự đảm bảo thích hợp cho tình
hình Hàn Quốc.
Lúc
này, Eisenhower của Đảng Cộng hòa Mỹ đã đắc cử tổng thống vào tháng 11 năm 1952
cố gắng thuyết phục Syngman Rhee đồng ý đình chiến. Và việc ký kết hiệp ước an ninh
chung giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 8 năm 1953 là đỉnh điểm của một
tham vọng cả đời của Syngman Rhee cho đất nước Hàn Quốc.
Sau khi đình chiến
Chiến tranh Triều Tiên, các cuộc đàm phán chính trị đã được tổ chức tại Geneva
từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1954 theo các điều khoản của hiệp định đình chiến để
thảo luận về vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên. Tại cuộc họp này, Bộ trưởng
Ngoại giao Byun Young-tae của Hàn Quốc đã đề xuất '14 điểm về thống nhất',
trong đó nội dung chính là:
Thứ nhất, tổng tuyển
cử tự do giữa hai miền Triều Tiên theo thủ tục Hiến pháp của Hàn Quốc dưới sự
giám sát của Liên hợp quốc trong vòng sáu tháng,
Thứ hai, Thành viên
Quốc hội theo tỷ lệ dân số, và hoạt động tiến hành điều tra dân số quốc gia dưới
sự giám sát của Liên Hợp Quốc để xác định số lượng,
Thứ ba, đảm bảo quyền
tự do ngôn luận và tự do đi lại cho các thanh sát viên và ứng cử viên của Liên
Hợp Quốc,
Thứ tư, duy trì hiệu
lực của Hiến pháp Cộng hòa của Hàn Quốc cho đến khi một cơ quan lập pháp mới sửa
đổi Hiến pháp.
Trước 4 yêu cầu trên của phía chính phủ Syungman
Rhee, Bộ trưởng Ngoại giao Bắc Triều Tiên đã bác bỏ thẩm quyền của Liên Hợp Quốc
và kiên quyết tổ chức 'Ủy ban Toàn Triều Tiên' với số lượng người ở phía Nam và
Bắc bằng nhau, tổ chức tổng tuyển cử đồng thời ở Nam và Bắc Triều Tiên theo luật
bầu cử đã ban hành bởi ủy ban này.
Kết quả, các cuộc đàm phán ở Geneva kết thúc không đạt được thống nhất
nên lý thuyết thống nhất tiến lên phía Bắc của Syngman Rhee vẫn tiếp tục.
Vào tháng 8 năm 1960,
với việc thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa, chính phủ Syungman Rhee đã từ bỏ lý
thuyết thống nhất Bắc tiến, nhưng họ vẫn đề xuất một kế hoạch tổng tuyển cử
thông qua Liên Hợp Quốc trong khi ủng hộ chính sách “thống nhất sau khi xây dựng
kinh tế”. Đề xuất này gặp phải sự phản đối của các đảng phái chính trị phía Hàn
Quốc. Vì nhiều chính trị gia nhấn mạnh rằng thống nhất là vấn đề nội bộ của quốc
gia. Tuy nhiên, chính phủ quân sự xuất hiện trong cuộc đảo chính quân sự
ngày 16 tháng 5 năm 1961 đã dập tắt những tuyên bố về các cuộc đàm phán liên
Triều và nhấn mạnh việc đạt được sự thống nhất do Đại Hàn Dân Quốc lãnh đạo
thông qua việc hỗ trợ phát triển quyền lực quốc gia.
Vào những năm 1960, kỷ nguyên của nền Cộng hòa thứ ba theo chính quyền
quân sự, đặc biệt là vào cuối những năm 1960, sự kích động của Triều Tiên đối với
cuộc cách mạng bạo lực chống lại Hàn Quốc trở nên dữ dội hơn bao giờ hết và
căng thẳng quân sự gia tăng do gián điệp thường xuyên xâm nhập vào Hàn Quốc.[18] Chính sách thống
nhất bán đảo Triều Tiên bằng quân sự lên phía Bắc của tổng thống Syngman Rhee hoàn toàn thất bại và mở
ra thời kỳ căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên đến thời tổng thống Kim Dae-jung.
Bàn luận (Discussion)
Diễn biến lịch sử chia cắt của bán đảo Triều Tiên và nỗ
lực thống nhất hai miền của hai chính phủ độc lập trái ngược về ý thức hệ đã cho
thấy rõ tư tưởng nhất quán của tổng thống Syngman Rhee. Với cương vị là tổng thống
đầu tiên của Đại Hàn dân quốc, Syngman Rhee là một trở ngại trong việc thiết lập
một kế hoạch hòa bình vào cuối Chiến tranh Triều Tiên. Syngman Rhee “vẫn bám lấy
giấc mơ về một đất nước Triều Tiên thống nhất dưới sự cai trị của ông ấy” [19].
Syngman Rhee đã nhận thức được tư tưởng tự do và dân quyền vào cuối triều đại
Joseon và vận dụng nó vào phong trào cải cách xã hội. Ông đã chấp nhận nền dân
chủ tự do do Mỹ lãnh đạo như một bước phát triển trong lịch sử văn minh. Vì vậy,
ông thấm nhuần tư tưởng nhà nước dân chủ tự do thì cần chống lại chế độ cộng sản
sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc. Do đó, sau khi bán đảo Triều Tiên được giải
phóng, Syngman Rhee ý thức theo đuổi đường lối chính trị thực tế với “lý thuyết
tổng tuyển cử tự do giữa hai miền trên bán đảo Triều Tiên” như một kế hoạch thống
nhất hòa bình dựa trên luật pháp. Đường lối thống nhất hai miền của ông là cần
đạt được chấp thuận của Liên hợp quốc dựa trên tư duy logic tồn tại “một người
dân, một quốc gia và một chính phủ”. Chỉ có Hàn Quốc là chính phủ hợp pháp truyền
thống duy nhất trên Bán đảo Triều Tiên, trong khi Triều Tiên là một chính phủ bất
hợp pháp. Vì vậy, thống nhất bán đảo là thống nhất bằng quân sự. Và nguyên tắc
thống nhất cơ bản của chính quyền Syngman Rhee là người dân Triều Tiên phải được
giải phóng thông qua tự do và dân chủ dựa trên các cuộc tổng tuyển cử tự do và
thống nhất ở Triều Tiên.
Thế nhưng, mong
muốn thống nhất hai miền trên bán đảo Triều Tiên giai đoạn này và đến ngày nay
là vô cùng khó khăn vì diễn biến lịch sử trên bán đảo đã trở thành một điểm nóng,
lôi kéo sự tham gia của cộng đồng quốc tế. Những tác nhân bên ngoài, tiêu biểu
là Mỹ và Liên Xô đã can thiệp quá sâu vào nội bộ bán đảo, ảnh hưởng đến quá
trình thống nhất với những lợi ích, mưu đồ chính trị riêng. Trước bối cảnh lịch
sử như thế, đứng trên lập trường tổng thống Syngman Rhee khó có thể giải quyết thỏa
mãn ý chí nguyện vọng của người dân trên bán đảo vừa đảm bảo an ninh và quan hệ
ngoại giao với hai cường quốc Mỹ - Liên Xô.
Mặt khác, vấn đề
thống nhất bán đảo Triều Tiên giai đoạn 1948
~ 1960 cũng khó thành công vì nội bộ hai miền thiếu sự thống nhất về tư
tưởng chính trị và đoàn kết đồng lòng giữa nhân dân hai miền. Dường như lãnh đạo
miền Nam - Syngman Rhee và lãnh đạo miền Bắc – Kim II sung chỉ mãi theo đuổi mục
đích chính trị, củng cố địa vị và quyền lực của mình hơn là cống hiến cho sự
nghiệp thống nhất chung.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Anh Thái (chủ
biên), 2008, Lịch sử thế giới nhiện đại, NXB. Giáo dục, p.223 – 333
김명한, 2007, 남북통일론 연구: 세계평화통일가정연합을 중심으로, 선문대학교 신학전문대학원 ,국내석사
https://encykorea.aks.ac.kr/Article/E0073408
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people/rhee-syngman
https://encykorea.aks.ac.kr/Article/E0042143
http://contents.history.go.kr/mobile/kc/view.do?levelId=kc_i500260&code=kc_age_50#:~:text=1954%EB%85%84%20%EC%A0%9C%EB%84%A4%EB%B0%94%ED%9A%8C%EB%8B%B4%EC%9D%80%20%EC%A0%84%EC%9F%81%20%EC%8B%9C%EA%B8%B0%20%ED%8C%90%EB%AC%B8%EC%A0%90%EC%97%90%EC%84%9C%20%EC%97%B4%EB%A0%B8%EB%8D%98,%EB%B0%A9%EC%95%88%EC%9D%B4%20%EC%A3%BC%EB%A1%9C%20%EB%85%BC%EC%9D%98%EB%90%98%EC%97%88%EB%8B%A4.
https://www.uniedu.go.kr/uniedu/home/brd/bbsatcl/nsrel/view.do?id=16186&mid=SM00000535&limit=10&eqViewYn=true&page=13&odr=news&eqDiv=
Quan hệ quốc tế bắc á
Sách Ngoại giao
[1]
Học viên Cao học ngành Hàn Quốc Học (2022 ~ 2024), Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Tp.Hồ Chí Minh
[2]
https://encykorea.aks.ac.kr/Article/E0059409
[3]
3 quốc gia nòng cốt của mặt trận Đồng minh trong chiến tranh chống phát xít.
[4]
Liên hợp quốc (The United Nations-UN) là tổ chức quốc tế liên chính phủ (liên
quốc gia) được thành lập và hoạt động trên cơ sở điều ước quốc tế (Hiến chương
Liên hợp quốc) kí ngày 26.6.1945 tại thành phố Xan Franxixcoo (San Francisco)
và có hiệu lực từ ngày 24.10.1945.
Liên hợp quốc ra đời nhằm mục đích:
1) Duy trì hòa bình, an ninh quốc tế;
2) Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội...;
3) Phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước;
4) Trở thành trung tâm phối hợp hành động giữa các nước
để đạt được những mục đích trên đây.
Liên hợp quốc có các cơ quan chính gồm: Đại hội đồng,
Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế - xã hội, Hội đồng quản thác, Toà án quốc tế
và Ban thư kí.
[5]
Mỹ thả hai
quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hirôsima (6-8-1945) và Nagasaki (9-8-1945), Nhật
Bản.
[6]
Nội dung được tuyên bố trong hội nghị Potsdam diễn ra vào ngày 26 tháng 7 năm
1945
[7]
Được ghi tại Hội nghị ngoại trường 5 cường quốc gồm: Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp,
Trung Quốc họp tại Matxcơva (12-1945)
[8]
Ủy ban gồm đại biểu các nước: Australia, Canada, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ,
Philippin, Xanvado, Xiri
[9]
Nguyễn Anh Thái, 2008, Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo dục, P.329)
[10]
Mục đích tham chiến của Liên hợp quốc là :"đẩy lùi cuộc tấn công vũ trang của
Triều Tiên và khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế trên Bán đảo Triều
Tiên".
[11]https://world.kbs.co.kr/special/northkorea/contents/625/war_panorama_v.html?lang=v#warResultModal
[12]
Vào cuối Thế chiến II, từ ngày 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945, F.D. Roosevelt,
W.L.S. Người đứng đầu ba nước, bao gồm Churchill và I. Stalin của Liên Xô, đã tổ
chức một cuộc họp tại Yalta trên Bán đảo Crimea để thảo luận về việc xử lý hậu
chiến và việc Liên Xô tham gia cuộc chiến chống Nhật Bản, đồng thời đề cập đến
việc thực hiện một hiệp định ủy thác 5 năm đối với Triều Tiên sau chiến tranh.
[13]
Tháng 12 năm 1945, Hội nghị Ngoại trưởng Mỹ, Anh và Liên Xô họp tại Mátxcơva.
Các vấn đề liên quan đến thời hậu chiến đã được đưa vào chương trình nghị sự, đặc
biệt là các vấn đề liên quan đến việc quản lý các khu vực bị chia cắt khỏi Nhật
Bản sau chiến tranh và các vấn đề về nền độc lập của Hàn Quốc dựa trên Hiệp định
Yalta đã được thảo luận. Kế hoạch ủy thác được quyết định tại cuộc họp này đã
gây ra sự phản đối mạnh mẽ của người dân Hàn Quốc và chia rẽ dư luận giữa tán
thành và không tin tưởng.
[14]
북진통일론 (北進統一論), https://encykorea.aks.ac.kr/Article/E0073408
[15]
Một tuyên bố thống nhất lãnh thổ Bắc Triều Tiên đã mất vào tay Đảng Cộng sản ngay cả khi sử dụng vũ lực
[16]https://www.uniedu.go.kr/uniedu/home/brd/bbsatcl/nsrel/view.do?id=16186&mid=SM00000535&limit=10&eqViewYn=true&page=13&odr=news&eqDiv=
[17]
https://encykorea.aks.ac.kr/Article/E0042143#section-9
[18]
https://encykorea.aks.ac.kr/Article/E0015002#section-15
[19] Nguồn: Cameron Forbes, The Australian, ngày 24 tháng 12 năm
2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét