ĐẠI HỌC QUỐC
GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---&---
NGUYỄN LAN ANH
TÍNH TRỌNG THỂ DIỆN
CỦA NGƯỜI HÀN
TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
TIỂU LUẬN MÔN HỆ
GIÁ TRỊ DÂN TỘC HÀN
Mã số: 8310614
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM
TP. HỒ CHÍ
MINH- 2023
MỤC LỤC
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu và
nguồn tư liệu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
CHƯƠNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.2. Các
yếu tố cấu thành tính thể diện
1.3. Nguồn
gốc hình thành văn hóa thể diện
CHƯƠNG
II. BIỂU HIỆN VÀ ĐẶC ĐIỂM TÍNH TRỌNG THỂ DIỆN CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC
2.1. Biểu
hiện tính trọng thể diện của người Hàn Quốc
2.1.2.
Trong cuộc sống sinh hoạt của người Hàn
2.1.3.
Danh xưng- xưng hô giao tiếp
2.2. Đặc
điểm tính trọng thể diện của người Hàn Quốc
2.2.5.
Xu hướng tuân thủ đám đông
CHƯƠNG
III. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA TÍNH TRỌNG THỂ DIỆN TRONG VĂN HÓA HÀN QUỐC
3.1. Ảnh
hưởng tích cực của tính trọng thể diện
3.2. Ảnh
hưởng tiêu cực của tính trọng thể diện
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài:
Tính thể diện là một hiện
tượng phổ biến ở mọi nền văn hóa, vì nhu cầu của con người là luôn mong muốn bảo
vệ thể diện của mình và chống lại sự tổn hại đến thể diện (Braun & Levinson,
1987).
Ở Hàn Quốc, thể diện trở
thành một trong những giá trị quan trọng trong nhận thức văn hoá, xã hội của
người Hàn và nó vượt lên mọi giá trị trong tính cách của dân tộc Hàn. Giá trị
này có thể dễ dàng tìm thấy trong các cuộc trò chuyện của người Hàn thông qua
những câu nói như: “Thể diện của tôi với tư cách là giám đốc, tôi không được
làm thế sao? - 내가 사장으로써의 체면이 있는데, 그럴 순 없지?” , “ Tôi lấy danh nghĩa gì, sao
phải làm việc này?- 내가 명색의 누구인데 그런 일을 하겠어?". Không chỉ thế, theo một nghiên cứu về cấu trúc ý thức của người
Hàn Quốc cho thấy: thể diện của người Hàn Quốc sẽ được nuôi dưỡng từ sớm trong
gia đình. Ngay khi còn nhỏ, khi nghe những câu như "Nếu làm như vậy thì
người khác sẽ cười đấy- 그런 짓을 하 면 남들이 웃는다” hay "Hãy suy nghĩ về thể diện một chút đi- 체면을 좀 생 각해서 해라” thì người Hàn đã có phản ứng rất nhạy cảm với điều này. (Yoon Tae
Rim,1984)[1].
Lee Gyu-tae (1987) cũng đề cập rằng thể diện của người Hàn Quốc “quan trọng
hơn cuộc sống”; tác giả Choi Sang-jin và Yoo Seung-yeop (1992) lập luận rằng thể
diện của người Hàn Quốc đóng vai trò và chức năng đặc biệt quan trọng trong các
mối quan hệ giữa các cá nhân.[2] Do đó, ý thức trọng thể diện của người Hàn Quốc rất mạnh mẽ.
Tính trọng thể diện ảnh
hưởng đến hành vi, tư duy của một cá nhân và một tổ chức trong cách ứng xử,
tương tác tùy vào tình huống xã hội khác nhau. Đồng thời, tính trọng thể diện của
người Hàn có thể liên quan đến các vấn đề xã hội như cạnh tranh, áp lực xã hội,
hình ảnh cá nhân, và sự chấp nhận xã hội. Vì vậy, “Tính trọng thể diện của người
Hàn trong xã hội hiện đại” là vấn đề đáng chú ý trong nghiên cứu hệ giá trị
văn hóa dân tộc Hàn.
2. Mục đích
và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện
với mục đích làm sáng tỏ các quan điểm, đặc điểm về tính thể diện của người
Hàn, từ đó xem xét những mặt tích cực lẫn mặt trái của tính cách này tồn tại
trong văn hóa Hàn Quốc. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận sẽ thực
hiện những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, Phân tích các
khái niệm, định nghĩa về “tính thể diện”, “ văn hóa trọng thể diện”; các yếu tố
và nguồn gốc hình thành tính thể diện của người Hàn.
Thứ hai, khái quát các
biểu hiện và đặc điểm nổi bật thuộc về tính thể diện của người Hàn.
Thứ ba, xem xét đánh giá
ảnh hưởng tích cực lẫn mặt trái của tính thể diện trong văn hóa- xã hội Hàn Quốc.
3. Tổng
quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ những năm cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20, nghiên cứu về tính cách dân tộc Hàn nói chung và văn hóa
thể diện, tính thể diện hay tính trọng thể diện nói riêng của người Hàn đã
được bắt đầu. Giai đoạn này, nhiều nhà nghiên cứu đến từ phương Tây và Nhật Bản
[3]như:
James S. Gale (1892), L.H. Underwood (1904), H.N. Allen (1908) và Gale (1909),
Imamura 1911, Bộ Tổng đốc Choson (1927), Ch’oe Nam Son/ 최남손, Ko Yong Buk/ 고용북 (2001),… đã bắt đầu quan tâm đến
văn hóa Hàn và thực hiện các nghiên cứu đầu tiên về tính thể diện ở Hàn Quốc tập
trung vào tầm quan trọng của trang phục, cách ăn mặc và phong cách thẩm mỹ
trong đời sống hàng ngày.
Những năm 1970, các
nghiên cứu về văn hóa thể diện đã phát triển hơn, bao gồm cả việc nghiên cứu về
tầm quan trọng của ngôn ngữ, văn hóa ẩm thực, các khía cạnh văn hóa truyền thống;
phân tích các yếu tố và đặc điểm của tính thể diện hay ảnh hưởng của gia đình,
giáo dục và xã hội đối với tính thể diện của người Hàn.
Từ những năm 1990 trở
đi, nghiên cứu về tính thể diện của người Hàn đã mở rộng để nghiên cứu các yếu
tố hiện đại và tác động của quá trình toàn cầu hóa. Các nhà nghiên cứu quan tâm
đến sự tác động của công nghệ thông tin, truyền thông đại chúng và sự phát triển
kinh tế đối với tính thể diện và những thay đổi trong suy nghĩ cũng như cách thể
hiện tính thể diện của người Hàn.
Đến những nghiên cứu gần
đây, tính thể diện được nghiên cứu ở các lĩnh vực cụ thể như kinh doanh, công
việc và sự nghiệp, giao tiếp xã hội, tôn giáo và cảm xúc cá nhân. Các nhà
nghiên cứu văn hóa, xã hội học, tâm lý học và các lĩnh vực khác cũng quan tâm đến
tác động của tính thể diện đối với sức khỏe tâm lý và trạng thái tâm trạng của
người Hàn. Tiêu biểu liên quan đến văn hóa thể diện có thể nhắc đến những
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, trong Luận văn
“ 한국인의 체면중시문화가 명품태도에 미치는 영향에 관한 연구- A Study on Relationship between Korean’s Traditional Trait and Attitude
for Luxury Goods” (2010), hai tác giả Lee Jae-jin và Yun Seong-yong đã tập
trung vào việc nghiên cứu tác động của văn hóa trọng thể diện của người Hàn Quốc
đến thái độ đối với sản phẩm cao cấp. Và tiến hành khảo sát trên một mẫu người
dân Hàn Quốc để thu thập dữ liệu. Các câu hỏi trong cuộc khảo sát xoay quanh việc
đánh giá thái độ và quan điểm về các sản phẩm cao cấp, cũng như mức độ quan tâm
và ưu tiên của người dân Hàn Quốc đối với các sản phẩm có thương hiệu này. Kết
quả cho thấy văn hóa trọng thể diện có ảnh hưởng đáng kể đến thái độ và hành vi mua sắm hàng hiệu của người dân Hàn Quốc.
Tuy nhiên, mặt hạn chế của nghiên cứu là chưa trình bày được nguồn gốc hình
thành văn hóa thể diện cũng như chỉ mới tập trung phản ánh một biểu hiện của
văn hóa thể diện.
Thứ hai, luận văn thạc sĩ “ 초등학교 교사들의 체면지향행동에 관한 조사 연구” được thực hiện bởi tác giả người Hàn Kim Yong-un vào năm 2002 tập trung vào việc khảo sát hành vi hướng tới giữ thể diện của giáo viên tiểu
học. Phương pháp nghiên cứu mà tác giả thực hiện là tiến hành khảo sát trên một
mẫu gồm các giáo viên tiểu học để thu thập dữ liệu. Trong đó, tác giả đưa ra các
câu hỏi xoay quanh các khía cạnh liên quan đến hành vi giữ thể diện của giáo
viên trong công việc; trong mối quan hệ với học sinh, phụ huynh và cộng đồng. Dựa
vào đó, tác giả phân tích và đánh giá các kết quả thu được để xác định xu hướng
chung và các yếu tố ảnh hưởng đến việc giữ thể diện của giáo viên. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng giáo viên tiểu học có xu hướng thể hiện hành vi hướng
tới giữ thể diện trong công việc của mình. Các yếu tố như văn hóa, giáo dục, địa
vị xã hội và quan hệ với cộng đồng được xác định là có ảnh hưởng đáng kể đến
hành vi này. Nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị và đề xuất để nâng cao tính
thể diện của giáo viên tiểu học và tạo ra một môi trường giáo dục tích cực. Tuy
nhiên, cũng giống nghiên cứu trước đó, bài viết mới chỉ trình bày một đặc điểm
của tính trọng thể diện dân tộc Hàn là nhu cầu khẳng định địa vị xã hội.
Bên cạnh những nghiên cứu từ các học giả Hàn Quốc, đề tài nghiên cứu về
tính trọng thể diện, tính thể diện hay văn hóa thể diện của người Hàn cũng được
các nhà nghiên cứu trong nước tích cực tham gia. Có thể liệt kê ở đây là tuyển
tập “Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng” của tác giả Trần Ngọc Thêm
được xuất bản năm 2014. Trong tập sách này, tác giả đã trình bày rõ về nguồn gốc
văn hóa hình thành nên tính cách trọng thể diện của người Hàn và các hệ giá trị
đặc trưng khác của dân tộc Hàn. Tuy nhiên, liên quan đến khái niệm, biểu hiện,
đặc điểm của tính thể diện, văn hóa trọng thể diện cũng như mặt tích cực và mặt
trái của tính cách này thì tác giả chưa đi nghiên cứu và phân tích sâu.
Như vậy, cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào khái quát toàn diện về đặc
điểm tính trọng thể diện của người Hàn và đánh giá mặt tích cực, mặt trái của
tính cách trọng thể diện này. Vì thế, với tiểu luận “Tính trọng thể diện của
người Hàn Quốc trong xã hội hiện đại”, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu, phân tích, tổng hợp những
vấn đề trên.
4. Đối tượng
và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của
tiểu luận là các luận văn, bài nghiên cứu có nội dung liên quan đến khái niệm,
biểu hiện, đặc điểm,…của tính thể diện, văn hóa thể diện hay tính trọng thể diện
của người Hàn.
Phạm vi nghiên cứu: Tiểu
luận sẽ giới hạn đề tài tính trọng thể diện của người Hàn dưới góc nhìn văn hóa
xã hội thời hiện đại.
5. Cách tiếp
cận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Để thực hiện tiểu luận
này, chúng tôi sử dụng tiếp cận đa ngành: văn hóa, giáo dục, tâm lý xã hội,…
Trong đó, văn hóa hành vi là cách tiếp cận chính.
Dựa trên nguồn tư liệu
là các tài liệu bằng văn bản từ sách, báo, tạp chí, luận văn; để khai thác hiệu
quả, tiểu luận này sẽ sử dụng một số phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp nghiên cứu hệ thống- loại hình, gồm thống kê, phân loại:
được chúng tôi sử dụng để thu thập các cứ liệu, và bước đầu phân loại định
nghĩa, yếu tố cấu tạo, nguồn gốc văn hóa, biểu hiện và đặc điểm tính thể diện theo lý thuyết.
Thứu hai, phương pháp phân tích, miêu tả, tổng hợp: được chúng tôi sử dụng để
phân tích các cứ liệu để hiểu rõ hơn về bản chất của khái niệm, biểu hiện, đặc
điểm, đồng thời trên cơ sở đó mô tả, tổng hợp lại đặc điểm cụ thể và đưa ra
đánh giá khách quan mặt tích cực, mặt trái của tính cách trọng thể diện Hàn Quốc.
Cuối cùng, phương pháp
so sánh: được chúng tôi sử dụng để đối chiếu tính thể diện của người Hàn với Việt
Nam trong phần kết luận.
6. Ý nghĩa
khoa học và thực tiễn
Tiểu luận “Tính trọng thể
diện của người Hàn Quốc trong xã hội hiện đại” thành công, không những đóng góp
tích cho khoa học nghiên cứu mà còn có giá trị đối với thực tiễn. Cụ thể, thông
qua kết quả nghiên cứu, tiểu luận sẽ cung cấp thêm nguồn tài liệu có hệ thống làm
căn cứ tham khảo cần thiết cho các nghiên cứu trong tương lai, đồng thời có thể
được sử dụng như một tài liệu tham khảo để các nhà giáo dục đại học soạn thảo
giáo trình liên quan đến giảng dạy Văn hóa Hàn Quốc, Hệ giá trị dân tộc Hàn. Mặt
khác trở thành nguồn tài liệu tham khảo quý giá để ứng dụng vào giao tiếp ứng xử
liên văn hóa; xây dựng mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp Việt Nam và Hàn Quốc.
7. Bố cục
tiểu luận
Ngoài phần dẫn nhập và kết
luận, tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về
lý luận
Chương 2: Biểu hiện và đặc
điểm tính trọng thể diện của người Hàn Quốc
Chương 3: Ưu điểm và hạn
chế của tính trọng thể diện trong văn hóa- xã hội người Hàn Quốc.
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm tính thể diện
Thể diện là một hiện tượng
tâm lý xã hội thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Hàn Quốc
và là một trong những đặc trưng cơ bản của hệ giá trị dân tộc Hàn. Vì thế, định nghĩa về “thể diện” khá đa dạng và
phong phú nhưng có sự tương đồng giữa các học giả Hàn Quốc và Việt Nam.
Trong “Đại từ điển tiếng
Hàn” do Hiệp hội Ngôn ngữ Hàn Quốc biên soạn, thể diện được định nghĩa là
“cách cư xử đáng tự hào với người khác” hoặc “ trách nhiệm ứng xử tự trọng
với người khác”. Có thể nói, định nghĩa này phản ánh rất rõ quan niệm về thể
diện của người Hàn Quốc, tức là chỉ khi bạn giữ thể diện thì mới có thể đối xử một
cách đường hoàng, trịnh trọng với người khác (Lim Tae-seop/임태섭, 1994).
Thể diện là nói đến đến một quá trình hoặc hiện tượng hành vi nâng cao địa
vị hoặc danh phận bên ngoài của bản thân hoặc người khác bằng cách hành động
khác với thực tế sự thật tùy thuộc vào hoàn cảnh và mối quan hệ. (Choi Sang-jin/최상진, Yoo Seung-up/유승업,1992).
Tương tự như Choi Sang-jin/최상진 vàYoo Seung-up/유승업, Yun Tae-rim/ 윤태림đã điều tra các ví dụ về thể diện xuất hiện trong tục
ngữ và giải thích từ góc độ chủ nghĩa hình thức. Ông định nghĩa rằng: thể diện là một hành vi phô trương, coi trọng hình
thức, như một kết quả của việc giữ gìn uy tín của mình. Ngoài ra, nó cũng được
coi là hành động có hệ thống về thể diện theo chủ trương của người khác và đồng
tình với suy nghĩ của nhiều người.
Choi Jae-seok/최재석[4] định nghĩa thể diện là sự đảm bảo cho sự tồn tại của một người bằng cách ý thức về địa
vị của mình và thể hiện những hành vi phù hợp với địa vị của mình đối với thế
giới bên ngoài.
Thể diện của người Hàn là khái niệm tâm lý vô cùng quan trọng trong một xã
hội có tính nhận thức về người khác, hướng đến thân phận vừa mang tính quyền uy
hơn là xã hội mang tính chủ nghĩa cá nhân, hướng đến bản thân, và hướng đến
bình đẳng giống như phương Tây. Đồng thời có thể thấy rằng thể diện được định vị
là một tính cách xã hội đối với người Hàn. (Choi Sang-jin/최상진 và Yoo Seung-yeop/유승엽, 1992; Choi
& Kim, 1992).
Khái niệm thể diện được cấu tạo bởi “체- thể” (frame, body- thân hình bên ngoài) và “면- diện” (face, surface – bộ mặt). Ở đây, thể diện
được thể hiện với bộ mặt mang tính xã hội, tuy nhiên theo Choi Sang-jin/최상진 và Kim Eui Cheol/김의철 (1992) thể diện bao gồm địa vị xã hội, phẩm cách, danh dự, đánh giá.
Bên cạnh những quan điểm của các học giả Hàn Quốc đã trình bày ở trên, tại
Việt Nam, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cũng khái quát định nghĩa về thể diện qua những
ý như sau: Thể diện là hình ảnh
bên ngoài, thể hiện quan niệm xã hội về giá trị được mọi người công nhận. Thể
diện đòi hỏi người Hàn luôn phải cư xử và hành động sao cho phù hợp với tuổi
tác, giới tính, địa vị xã hội của mình. Người có địa vị xã hội cao hoặc kinh tế
tốt, thì phải rộng rãi trong mua sắm và tiếp đãi bạn bè.[5] Ông nhận định rằng, Hàn Quốc cũng giống
như Việt Nam, có nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với tính cộng đồng cao, xem trọng
các mối quan hệ nên rất coi trọng thể diện – 체면/體面.
Tóm lại, thông qua việc tổng hợp định nghĩa thể diện được nhiều học giả đã
đề cập ở trên thì có thể thấy rằng thể diện có liên quan chặt chẽ với các giá
trị của Nho giáo Hàn Quốc với bản chất: là hình ảnh bản thân thể hiện ra bên
ngoài mà chính họ mong muốn nhìn thấy (hình ảnh bản thân) vừa là hình ảnh bản
thân được thể hiện ra bên ngoài mong được người khác công nhận (hình ảnh công
chúng). Tiếp theo, thể diện là một hình ảnh đáng được xã hội mong đợi, nên
trong ứng xử, người Hàn cần chú trọng sao cho phù hợp với địa vị, thứ bậc, chức
danh tùy vào tình huống, mối quan hệ tương ứng. Mặt khác, thể diện của Hàn Quốc coi trọng danh nghĩa và uy quyền
hơn là sự thống nhất của biểu hiện và hành động. Điều này khác với “danh dự’ của
phương Tây- giữ gìn và duy trì theo hướng phù hợp với địa vị và biểu hiện của
gia tộc, và lòng kiêu hãnh- tự trọng được nhấn mạnh để theo đuổi chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa bình đẳng. Do đó, thể diện
của người Hàn nhấn mạnh đặc điểm tính cách được “ điểm tô bên ngoài- 치레” và xây dựng thể diện,
gìn giữ thể diện là vô cùng quan trọng trong văn hóa
chủ nghĩa quan hệ; nền văn hóa hướng đến thân phận, hướng đến danh phận. (Choi
Sang-jin, 1997).
1.2. Các yếu tố cấu thành tính thể diện
Liên quan đến các yếu tố cấu thành thể diện của
người Hàn Quốc, Lim Tae Seop/임태섭 (1994)
khẳng định rằng nó được cấu thành từ các yếu tố như cư xử-처신, nhân cách-인품, phẩm giá-품위,
năng lực-역량 và trưởng thành-성숙. [6]
Yếu tố cách cư xử là yếu tố được duy trì khi
nghiêm túc tuân thủ các quy tắc và có những hành vi, ứng xử phù hợp với các chuẩn
mực xã hội. Trước hết, người Hàn cần có vẻ ngoài gọn gàng bao gồm tất cả: hình
thức bên ngoài với cẩn thận về trang phục, lời nói và hành động điềm đạm, dáng
vẻ, phong thái, hành động. Tiếp đến, ứng xử phù hợp với tiêu chuẩn xã hội. Ở
đây, các chuẩn mực không phải là luật, nhưng bởi vì chúng hành động trong một
tình huống nhất định nên hình thành khuôn khổ tác động đến sự hạn chế về hành
vi của các thành viên trong tổ chức xã hội Hàn Quốc. Ví dụ như việc quy định tất
cả học sinh phải mặc đồng phục học sinh là một quy chuẩn rất mạnh về trang phục
xã hội. Mặt khác, Hàn Quốc ảnh hưởng mạnh mẽ từ Nho giáo nên nhấn mạnh sự hài
hòa tổng thể và bỏ qua tính cá nhân của từng người. Không những thế, họ cần điều
chỉnh hành vi, ứng xử xem cấp bậc phù hợp với vị trí, vai trò của mình. Ví dụ người
có văn hóa thì không nên cư xử thô tục, người có văn hóa thì không nên ăn mặc
lòe loẹt; đàn ông giúp việc nhà, ít khi cõng con đi chợ hay ít khi người già mặc
quần soóc ra đường là những hiện tượng thường thấy ở Hàn.
Yếu tố thứ hai, nhân cách thể hiện tính nhân văn
bình thường bên trong hơn là hành vi bên ngoài nên vừa chứa đựng khuynh hướng
thành thật, vừa dè dặt lời nói vừa ngay thẳng. Người Hàn Quốc nhấn mạnh rằng
tính cách quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác thể hiện bằng cụm từ “인간이 돼라- hãy là con người đi”. Vì vậy, tất cả người Hàn Quốc đều hy vọng được coi
là người sở hữu những tính cách đáng mơ ước. Để có nhân cách xuất chúng, họ phải
là người đáng tin cậy, có thiện chí, có trí tuệ. Do đó, người Hàn phải có niềm
tin vào bản thân và chân thành, trung thực trong lời nói và hành động của chính
mình. Không những thế, người Hàn cũng cần phải làm gương trong bổn phận và chịu
trách nhiệm. Ngoài ra, họ cần biết tiết chế lời nói và hành động cho phù hợp,
không nói những điều vô căn cứ hoặc không sử dụng vũ lực hay khoe khoang, chê
bai người khác để tự khẳng định mình.
Yếu tố thứ ba là phẩm giá hay còn gọi là nhân phẩm,
có quan hệ mật thiết với địa vị xã hội hoặc địa vị kinh tế. Nhân phẩm được kỳ vọng
ở những người có địa vị xã hội cao hoặc có hoàn cảnh kinh tế tốt. Họ cho rằng,
những người có tư chất xuất sắc thì có ngoại hình đẹp, và những người có ngoại
hình xuất sắc thì có phẩm chất cao hơn. Do đó, phô trương vẻ dư dả bên ngoài của
một người cũng là một cách để đảm bảo địa vị xã hội của một người. Người Hàn
không ngại chi tiêu hào phóng cho các mối quan hệ xã giao với những món quà, bữa
cơm đãi khách. Chi phí này được gọi là “품위 유지비- chi phí duy trì phẩm giá”. Bên cạnh đó, người Hàn rất chú trọng đến vấn đề
con cái học vấn tốt, sở hữu nhà lầu xe xịn, bố mẹ anh chị em phát triển sự nghiệp
tốt, gia đình sống hòa thuận, biết giúp đỡ người khác. Cho nên, hiện tượng lấy
bằng giả, giả mạo học vấn, khoe khoang anh chị em, mua nhà lầu xe hơi xứng
đáng, giúp đỡ người khác dù không có khả năng để cố gắng nâng cao phẩm giá của
mình qua một gia đình hoàn hảo là trường
hợp dễ dàng bắt gặp ở trong văn hóa Hàn Quốc. Qua đó, cho thấy người Hàn không
ngừng nâng cao sự phong phú nội tâm, sự dư dả về vật chất, vẻ ngoài tuyệt vời
và xây dựng gia thế thịnh vượng.
Năng lực là yếu tố thứ tư nói về năng lực được chứng
minh mang tính xã hội hơn là hiểu biết cá nhân. Ví dụ, khi nhìn vào một người
thăng tiến hoặc được thăng chức nhanh chóng, thì người Hàn sẽ nói: “그 사람 능력있다- Người đó có năng lực.” Lúc này, có năng lực được nhìn nhận, đánh giá như
một yếu tố thể diện. Yếu tố năng lực ở đây luôn được đặt trong mối tương quan
so sánh với người khác. Để chứng tỏ có năng lực, người Hàn luôn nỗ lực chăm chỉ
cần cù học tập và làm việc để không bao giờ được tụt hậu so với những người có
cùng điều kiện. Và cụm từ “ 사장님- ông chủ/ giám đốc” đã
chứng minh cho văn hóa có xu hướng phô trương thành công của mình bằng các chức
danh giả trong cộng đồng người Hàn.
Cuối cùng, trưởng thành đề cập đến những yêu cầu
cơ bản mà một người phải đạt được khi trưởng thành, bao gồm những phẩm chất có
thể làm được những gì được giao phó, sự tự chủ có thể tự làm mà không cần sự
giám sát của người khác, sự tôn trọng ý kiến của người khác và sự chấp nhận từ
những người xung quanh.
Tóm lại, trên quan điểm của Lim Tae Sheop/임태섭: Cách cư xử và nhân cách là thể diện phản ánh
tính cách và tính cách của con người. Phẩm giá phản ánh vị trí xã hội của người
đó. Còn năng lực và sự trưởng thành phản ánh một phần chức năng của người đó.
Ngoài quan điểm trên, có tác giả phân tích các yếu
tố cấu thành tính thể diện như sau:
Thể diện được cấu tạo từ
5 lớp[7], gồm: Đạo đức, ý đồ nội tâm, địa vị xã hội, vai
trò xã hội ; giáo dục và hành vi hướng
ngoại.
Lớp thứ nhất và lớp thứ
hai (đạo đức, ý đồ nội tâm) là lớp nhận thức bên trong, những người khác không
thể hiểu và thấy được. Hai lớp này được suy luận từ thể diện hoặc biểu hiện tượng
trưng. Lớp địa vị vai trò xã hội và giáo dục được định nghĩa và mô tả mang
tính chất xã hội. Cuối cùng là Hành vi hướng ngoại là phần có thể quan sát trực
tiếp. Hành vi và biểu tượng có thể quan sát trực tiếp đóng vai trò thể hiện ra
thân phân và địa vị cá nhân.
Cuối cùng, quan điểm của
Choi Sang Jin và Yoo Seung Yeop (1992) là vừa xem
thể diện của người Hàn Quốc có vai trò quan trọng trong quan hệ cá nhân, vừa
phân chia thể diện thành tự giữ thể diện và thể diện do người khác xây dựng.
Ngoài ra, ông cho rằng thể diện của người Hàn Quốc thiên về yếu tố trổ tài bản
thân và chủ nghĩa quyền uy hơn là sự thân thiện, đồng thời tính cách của hành động
ứng phó theo tình huống đậm nét hơn là ý thức xã hội.
Ba quan điểm phân chia các yếu tố cấu thành tính
thể diện có sự khác nhau về tên gọi nhưng về cơ bản vẫn xoay quanh những đặc điểm
giống nhau phổ biến trong xã hội văn hóa Hàn Quốc. Vì vậy, tiểu luận sẽ lấy đó làm cơ sở lý thuyết để
tiếp tục phân tích so sánh đối chiếu ở những phần sau.
1.3. Nguồn gốc hình thành văn hóa thể diện
Văn hóa thể diện hay còn
gọi là tính trọng thể diện là một trong những đặc trưng giá trị có nguồn gốc chủ
yếu từ phương thức mưu sinh của dân tộc Hàn. Trong bài báo Vai trò tính cách dân tộc trong quá trình đô thị
hóa Hàn Quốc (có so sánh với Việt Nam), GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm đã trình bày đầy đủ chi tiết
về nguồn gốc tính cách dân tộc Hàn. Trong đó, tác giả nhấn mạnh tính hệ thống
trong nghiên cứu văn hóa và tính cách dân tộc Hàn bị chi phối bởi hai yếu tố
khách quan và chủ quan thuộc về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội bao gồm
ba yếu tố: môi trường sống; nguồn gốc dân tộc và loại hình kinh tế. Cụ thể, văn
hóa thể diện của người Hàn hình thành dựa trên loại hình kinh tế nông nghiệp
lúa nước. Loại hình kinh tế nghề nông nghiệp lúa nước này bắt đầu xuất hiện từ
thời kỳ đồ đồng (khoảng từ TK VIII đến TK IV trCN), thâm nhập vào bán đảo Hàn từ
khu vực Đông Nam Á cổ đại nằm ở phía nam sông Dương Tử, đi qua khu cư dân Hoa Hạ
sống ở lưu vực sông Hoàng Hà và hình thành nên loại hình kinh tế lâu đời ở đây.
Loại hình này là nguồn gốc của những đặc trưng âm tính của tính cách người Hàn,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sáu trên bảy đặc trưng tính cách dân tộc Hàn.
Bên cạnh nguồn gốc sâu
xa, văn hóa thể diện của người Hàn có quan hệ mật thiết với các giá trị Nho
giáo (김양희 Kim Yang-hee, 1994; 박기순 Park Ki-soon, 1994).
CHƯƠNG II. BIỂU HIỆN VÀ
ĐẶC ĐIỂM TÍNH TRỌNG THỂ DIỆN CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC
2.1. Biểu hiện tính trọng thể diện của người Hàn Quốc
Dựa trên cơ sở lý thuyết,
Thể diện của người Hàn thể hiện trên nhiều phương diện. Trong đó, thể diện được
đánh giá phổ biến nhất qua hình thức bề ngoài nổi bật như ăn uống, mặc ở, đi lại,
nói năng,…Tuy nhiên, tiểu luận này sẽ xem xét biểu hiện tính trọng thể diện
trên năm yếu tố sau:
2.1.1. Trong tục ngữ
Tục ngữ hội tụ hệ thống
tri thức, niềm tin về sự kiện, nhân sinh thông qua những kinh nghiệm, suy nghĩ,
sự đồng cảm của cá nhân hoặc tập thể trong quá trình sinh hoạt xã hội tập thể của
con người. Do đó, trong mỗi câu tục ngữ chứa đựng phổ quát giá trị tư tưởng văn
hóa, lịch sử, xã hội, tư duy, tâm lý nên một câu tục ngữ có thể có giá trị trí
tuệ đáng tin cậy như kiến thức khoa học.
Khi tìm kiếm từ khóa về
những câu tục ngữ Hàn Quốc liên quan đến “thể diện- 체면”, kết quả có 45 câu[8], cho thấy thể diện là khái
niệm xuất hiện ở khắp mọi nơi trong văn hóa Hàn Quốc. Trong đó, Yoon Tae-rim
(1986) đã giới thiệu những câu tục ngữ Hàn Quốc thể hiện thể diện điển hình
như: “Một nhà quý tộc không sưởi lửa ngay cả khi anh ta chết cóng- 양 반 은 얼 어 죽 어 도 곁 불 은 안 쬔 다”; “Uống nước lạnh cũng phải xỉa răng- 냉수 먹고 이빨 쑤시기”, “Càng nghèo càng xây nhà
ngói- 가난할 수록 기와집 짓는다”; ….Hoặc những câu tục ngữ khác như: Để tồn tại thì: “Cọp đói tép bạc cũng ăn - 굶주린 범은 가재도 먹는다”; nhưng vì giữ thể diện nên: “Cọp cũng chẳng thể bắt nhím mà ăn được- 범도 고슴도치는 못 잡아먹는다”; “Cho dù bị truy đuổi thế nào cũng cởi giày mà chạy
-아무리 쫓겨도 신발 벗고 가랴”; “Ăn mày đội mũ che mặt -너울 쓴 거지”; Giữ thể diện thái quá, dẫn đến “Chết đói vì sĩ diện -체면 차리다 굶어 죽는, thay vào đó “Thể diện thì cũng phải ăn -먹어야 체면”, “Nhận được đối đãi như thế là nhờ vào gia môn- 가문 덕에 대접받는다”; “Lưỡng ban có rơi xuống nước cũng không chịu bơi
chó- 양반은 물에 빠져도 개헤엄은 안 한다”,…Nội dung những câu tục ngữ này đều miêu tả thể diện là một hiện tượng
bên ngoài hoặc thể hiện lòng tự trọng xã hội, được kiểm soát bởi các quy tắc xã
hội và hành vi xã hội, và được giữ gìn và xây dựng bởi người khác. Nó cũng là một
quy tắc tương tác để trao đổi vị trí trong các mối quan hệ xã hội, và là một hiện
tượng quan trọng trong xã hội chủ nghĩa độc tài định hướng người khác và định
hướng thân phận.
Ngoài ra, trong những cuộc đối thoại thường ngày của người Hàn, từ “thể diện- 체면” nhiều lần xuất hiện như: “Mất hết thể diện của chủ
tịch- 회장님 체면에 말이 · 아니군!”, “làm tổn hại đến thể diện của bố mày- 아버지 체면에 먹칠을 하다니”, “làm ơn giữ thể diện của chồng- 남편 체면 좀 세워줘”, “ Đừng giữ thể diện mà cứ ăn nhiều vào- 체면 차리 지 말고 많이 먹어”. Từ đó chứng tỏ người Hàn
vô cùng coi trọng thể diện và khuynh hướng tưởng tượng là phô trương giá trị của mình (Lee Kyu-tae, 1991).
2.1.2. Trong cuộc sống sinh
hoạt của người Hàn
Đám cưới, đám tang, lễ tết, hội họp là dịp để người Hàn
thể hiện và khẳng định thể diện bản thân và đối phương thông qua các tình huống
và mối quan hệ. Tính thể diện dễ dàng thể hiện ra bên ngoài qua cách ăn mặc, tổ
chức, tiếp đãi, giao tiếp,…Đồng thời, tình huống này cũng là cơ sở để người
khác có thể đánh giá về hành vi của bạn.
Đám cưới ở Hàn Quốc trước đây và hiện nay có sự thay đổi về
nhận thức. Tuy nhiên, "Đối với các gia đình truyền thống, hình thức là
một điều rất quan trọng khi tổ chức cưới xin, do đó ở Hàn Quốc, đây giống như
cuộc hôn nhân giữa các gia đình", nên người Hàn vẫn giữ xu hướng mời khách
tham dự lễ cưới càng nhiều người càng tốt, đặc biệt ở những người có địa vị xã
hội cao. Thành phần khách mời có "Khoảng 20% là gia đình và họ hàng,
30% là bạn bè của vợ chồng tôi, còn 50% là khách của bố mẹ chúng tôi". Để
giữ thể diện thì lễ cưới Hàn Quốc thường được tổ chức ở một nơi sang trọng. Chi
phí cho một bữa ăn tại sảnh tiệc cưới sang trọng thậm chí có thể bằng tiền ăn cả
tháng của người dân bình thường. Theo kết quả nghiên cứu 1.000 đôi mới cưới
trong hai năm của DUO Info Corporation, công ty tư vấn hôn nhân hàng đầu ở Hàn
Quốc, chi phí tổ chức đám cưới trung bình ở Hàn Quốc là 230 triệu won (tức
196.000 USD). Số tiền này cao gấp 6 lần thu nhập trung bình của một người Hàn
Quốc ngoài độ tuổi 30 (32.900 USD) và gần 9 lần thu nhập của những người dưới
29 tuổi, theo số liệu của chính phủ Hàn Quốc[9]. Đối với
khách mời khi nhận được thiệp mời đám cưới, vì thể diện bạn không thể không đi và cũng không thể cho tiền mừng ít
hơn, có trường hợp phải vay mượn để mua quà cưới đắt tiền hơn khả năng.
Trong các buổi họp mặt chiêu đãi ăn uống khách tới thăm nhà, mặc dù người
Hàn dành hết tâm huyết thức suốt đêm để chuẩn bị thức ăn nhưng luôn nói rằng: “Dù
là không chuẩn bị gì nhưng hãy ăn nhiều vào nhé- 차린 것은 없으나 많이 드세요. Chúng tôi chỉ chuẩn bị đơn giản những món mà chúng
tôi ăn hàng ngày thôi -그냥 저 희가 평소 먹던 걸로만 간단히 준비 했습니다” .
Hoặc văn hóa “tôi bao - 내가 쏟다” chỉ có thể thấy ở một
vài quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Việt Nam. Khi đi ăn cơm hay uống trà cùng bạn
bè, đồng nghiệp, người Hàn lớn tuổi hoặc có địa vị xã hội cao hơn, hoặc nam giới
sẽ luôn trả tiền phần ăn, phần uống cho người nhỏ tuổi hơn, nhân viên, học trò,
nữ giới. Vì người ta cho rằng việc nhận tiền ăn uống của những đối tượng như vậy
là mất thể diện. Tuy nhiên, giới trẻ ngày nay, thể diện đối với họ là cùng chia
sẻ góp tiền vì họ có suy nghĩ
rằng “ Có thể diện thì sao phải ăn chực - 체면이 있지 어찌 얻어먹어?”.
Tình huống khi một người khách Hàn đến thăm nhà đa số sẽ khen ngợi những đứa
trẻ của chủ nhà. Và mặc dù sự thật không phải như thế nhưng để giữ thể diện sẽ
thường xuyên tâng bốc lên rằng “ Mấy đứa nhỏ thông minh và ngoan quá - 아이가 참 똑떡하고 착하게 생겼습니다”. Không chỉ vậy, trong giao tiếp, người Hàn luôn
hào phóng tặng đối phương một câu khen ngợi như: “ Nói tiếng Hàn giỏi quá!- 한국말 잘했어요”,…dù thực tế bạn chỉ nói được một câu “xin chào- 안녕하세요”.
Tiếp theo, người Hàn Quốc cũng rất chú trọng đến diện
mạo bên ngoài. Vì vậy, không còn xa lạ khi những cụm từ “ văn hóa dưỡng da của
người Hàn”, “văn hóa trang điểm của người Hàn”, “ thời trang Hàn Quốc”, “phẫu
thuật thẩm mỹ Hàn Quốc” xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Với
mong muốn xuất hiện ngày càng hoàn hảo, người Hàn cả nam lẫn nữ, từ người già đến
trẻ con trước khi ra ngoài, đi làm, đi học, gặp đối tác,…đều dành một khoảng thời
gian để trang điểm, làm tóc, chuẩn bị trang phục. Ví dụ, mỗi ngày trước khi đi
làm, anh chàng Shawn Jung dành khoảng 30 phút trước gương để trang điểm. "Nhiều
đàn ông Hàn Quốc ngày nay không chỉ dùng các sản phẩm chăm sóc da mà còn thực
hiện một số bước trang điểm cơ bản, ví dụ như kẻ lông mày"; "Ngay cả
trong quân đội, tất cả đàn ông đều đang bôi kem chống nắng và kem BB". Theo
báo cáo của Global Data năm 2018, ba phần tư đàn ông ở xứ kim chi đã thực hiện
liệu pháp làm đẹp ít nhất một lần/tuần, ví dụ như đi tới thẩm mỹ viện hay chăm
sóc da mặt tại nhà. Doanh thu bán mỹ phẩm cho nam giới cũng đạt một tỷ USD vào
năm ngoái.[10]
Bên cạnh biểu hiện mọi thứ ra ngoài nhằm phô trương
thể diện, danh dự, địa vị; người Hàn còn giữ thể diện, nâng cao vị trí bản thân
bằng sự khiêm tốn trong lời nói, hành động, ăn mặc chuẩn mực phù hợp với tình
huống giao tiếp. Ví dụ như chọn cách ăn mặc lịch sự, nhã nhặn trong hôn lễ,
tang lễ, công sở hay khi được khen, người Hàn sẽ nói “cảm ơn”,…
2.1.3. Danh xưng- xưng
hô giao tiếp
Trong cuốn sách “Phán
đoán người Hàn Quốc (1991)”, một cuốn sách được Tòa soạn Nhật báo Đông Á xuất bản
thành sê-ri dự án dài kỳ hàng năm vào năm 1990, bao gồm 45 sê-ri, đề cập đến ba
bài báo liên quan đến thể diện. Một là “lạm phát danh xưng nghiêm trọng- 호칭 인플레가 심하다 ”, hai là “sự phô trương bản thân quá mức- 자기과시 지나치다”, và “bên ngoài và bên trong khác nhau”. Tình trạng
“lạm phát danh xưng nghiêm trọng- 호칭 인플레가 심하다” thể hiện rõ trong hệ thống sử dụng kính ngữ một
cách thái quá và thái quá khi xưng hô với người khác của người Hàn Quốc. Ví dụ,
về việc lạm dụng danh hiệu kính ngữ: Người Hàn thích xưng hô theo địa vị để khẳng định vị trí của mình, kể cả những
chức vụ rất thấp (đội trưởng Park- 박 팀장님, tổ trưởng Han- 한 대리님, giám đốc Kim- 김 사장님, giáo sư Lee- 이 교수님). Họ có ý thức
phân biệt địa vị xã hội ngay từ nhỏ, luôn cố gắng hành động phù hợp với địa vị.[11]
Bên cạnh hệ thống kính
ngữ phức tạp, người Hàn Quốc rất chú trọng đến danh phận biểu hiện qua “văn hóa
danh thiếp”. Khi chào hỏi, gặp mặt nhau lần đầu, người Hàn thường trao danh thiếp
cho nhau và họ luôn đón nhận kính cẩn, dừng lại xem một chút mới cất đi. Hoặc
khi một nhân viên mới vào công ty, dù giữ chức vụ thấp nhất, họ cũng được công
ty làm phát cho hộp danh thiếp cá nhân.
Giải thích cho hiện tượng
trên, Giáo sư Kwangsik Kim nói rằng: “những người có mặc cảm tự ti nghiêm trọng về địa vị và công việc của họ được
bù đắp về mặt tâm lý bằng cách nghe những danh xưng danh dự”, và Giáo sư Choi Jong-go phân tích rằng: “Định hướng địa vị của người Hàn Quốc đã sinh ra việc
lạm dụng quá nhiều danh xưng trang trọng.” Howell (1967), một người nước ngoài nghiên cứu hệ
thống kính ngữ của Hàn Quốc trước đó, cũng giải thích tâm lý của người Hàn Quốc
về việc sử dụng kính ngữ như các yếu tố xã hội như địa vị và có mối quan hệ
liên kết mật thiết.
2.1.4. Giáo dục
Tính thể diện thể hiện rất rõ trong sản phẩm giáo dục của Hàn Quốc. Vì giáo
dục là "hành vi nâng cao giá trị của con người và nuôi dưỡng nhân cách”. Trước
hết, nghề giáo được coi trọng nhất trong xã hội và mối quan hệ giữa thầy cô
giáo với học sinh luôn có khoảng cách nhất định. Việc tránh thân thiết quá mức
là cách để các giáo sư người Hàn bảo vệ thể diện của mình. Các giáo sư ở Hàn Quốc
có tiếng nói và tầm ảnh hưởng lớn, tác động tới doanh nghiệp và chính phủ. Đồng
thời, tương xứng với địa vị xã hội cao, họ cũng có thu nhập cao.
Người Hàn phân biệt địa vị, thứ bậc rất rõ. Ví dụ Giáo sư không ngồi chung
bàn với Thạc sĩ, giáo viên trong một hội nghị hay buổi tiệc.
Bên cạnh đó, trong quan điểm của người Hàn, bằng cấp
luôn được xem trọng. Việc được vào học trường học nổi tiếng, đạt thành tích tốt
nhất, xếp thứ hạng nhất của con cái trong lớp là niềm tự hào đại diện cho thể
diện gia đình. Vì vậy, người Hàn đầu tư rất lớn cho giáo dục. Chi tiêu tư nhân
cho giáo dục (bao gồm học thêm) chiếm 3,6% GDP quốc gia của Hàn Quốc[12].
Một nhóm bà mẹ người Hàn ngồi lại trong quán cà phê sẽ luôn khoe về con cái họ:
học trường nào, học thêm ở đâu, học đứng vị trí thứ mấy trong lớp, thi vào trường
nào,…Thậm chí, thể diện trong giáo dục ở Hàn Quốc còn thể hiện qua suy nghĩ “không
quan trọng trong ví bạn có bao nhiêu tiền, hãy cho mọi người thấy mình có bao
nhiêu bằng cấp trong tay”. Do đó, hiện tượng dù đã tốt nghiệp đại học, khoảng
70% sinh viên vẫn theo học lên bằng cấp cao hơn hoặc thi lấy những chứng chỉ
nghề, học thêm các kỹ năng khác. Ngay cả những ông chú, bác đã có tuổi cũng vẫn
ép bản thân học hành để tích lũy kiến thức[13].
2.1.5. Hành vi tiêu dùng
Người Hàn Quốc có xu hướng coi trọng và ưu tiên mua sắm các sản phẩm hàng
hiệu để thể hiện đẳng cấp và nhận được tôn trọng trong xã hội. Theo tạp chí
Bloomberg vừa công bố mới đây, người Hàn Quốc là những người chi tiền nhiều nhất
thế giới cho các mặt hàng xa xỉ. Ngân hàng đầu tư ước tính tổng chi tiêu của
Hàn Quốc cho mặt hàng xa xỉ cá nhân đã tăng 24% vào năm 2022, con số lên tới
16,8 tỷ đô la, tương đương khoảng 325 đô trên đầu người. Theo ước tính của nhà
phân tích tài chính Morgan Stanley, con số này cao hơn nhiều so với mức chi
tiêu bình quân đầu người của công dân Trung Quốc (55 đô) và Mỹ (280 đô).[14]
Khi một sản phẩm mới ra mắt, người Hàn cố gắng bắt kịp xu hướng bằng cách
mua nó trước những người khác. Ví dụ, chiếc điện thoại mới ra mắt, giới trẻ người
Hàn sẽ mua một chiếc điện thoại mới để giữ cho nó không bị lỗi thời. Thậm chí cứ
hai năm, họ lại đổi điện thoại một lần. Đàn ông Hàn Quốc cũng tự hào khi uống
rượu đắt tiền và khoe về điều đó. Còn phụ nữ Hàn tự hào khi sở hữu đồ trang sức
đắt tiền và hàng xa xỉ[15].
2.2. Đặc điểm tính trọng thể diện của người Hàn Quốc
Từ
những biểu hiện của tính thể diện phản ánh trong đời sống văn hóa, xã hội, suy
nghĩ của người Hàn đã cho thấy rằng: người Hàn thường coi trọng hình tượng cá
nhân và xã hội, và họ có xu hướng tuân thủ các quy tắc và giá trị xã hội để bảo
vệ danh dự và lòng tự trọng cá nhân. Cụ thể, tính trọng thể diện của người Hàn có
năm đặc điểm tiêu biểu dưới đây:
2.2.1. Trọng hình thức
Trong cuộc sống người Hàn, thể diện bị chi phối bởi giới
tính, tuổi tác, mức độ thân sơ và địa vị xã hội. Cho nên, việc duy trì hình
ảnh đẹp, đúng mực và trang trọng trong các tình huống xã hội và giao tiếp hàng
ngày là cần thiết. Người Hàn mang tư tưởng chủ nghĩa trọng hình thức của người
phương Đông, đặc biệt đề cao ánh nhìn của người khác hơn bản thân. Vì vậy, người
Hàn Quốc dù đi đến đâu, họ luôn ý thức được sự chú ý của công chúng và mặc những
bộ quần áo phù hợp với thân phận và trình độ của mình, hoặc ít nhất là cố gắng
bắt kịp xu hướng, xây dựng một vẻ ngoài sành điệu, thể hiện một thế giới quan độc
đáo coi trọng cuộc sống của bản thân. Mặc dù mang tính hình thức thái quá nhưng
đối với người Hàn thể diện không chỉ là của bản thân mình mà cần đặt vào vị thế
sang người khác. Hơn nữa, trong nhiều tình huống, người Hàn có xu hướng phô
trương ra bên ngoài trái với bản chất sự thật. Sở dĩ người Hàn có xu hướng như
vậy là vì cảm giác không muốn thua kém bất kì ai. Cho dù không có năng lực cũng
phải đầy đắp lên người mình một loạt bằng cấp, một loạt giải thưởng, chú ý ngoại
hình để tạo ấn tượng. Họ diện lên người đủ thứ hàng hiệu với vẻ ngoài chuyên
nghiệp để xây dựng niềm tin cho bản thân và cảm giác an tâm trước đánh giá của
người khác, đồng thời để
giữ gìn uy tính.
Bên cạnh đó, tính tôn ty
xuất phát từ chủ nghĩa gia đình, ảnh hưởng từ Nho giáo nên sự tôn trọng phép tắc
lễ nghĩa của người Hàn mang tính chất thái quá. Người Hàn hỏi tuổi tác để thiết
lập trật tự giao tiếp, để sử dụng kính ngữ phù hợp nhằm xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp trong quá trình trò chuyện, ăn uống, làm việc cùng nhau. Do đó, tuổi tác
càng lớn thì thể diện càng được coi trọng hơn.
Tùy vào hoàn cảnh và các mối quan hệ,
thông qua những hành vi thể hiện khác với bản chất của mình, thể diện là hiện
tượng tâm lý xã hội đặc thù của người Hàn Quốc. Khoa trương bề ngoài ngược với
thực chất để nâng cao địa vị và danh phận bản thân. Nếu người khác thấy được sự
phơi bày thực tế một cách trần trụi và nó trở thành lý do để đánh giá thấp mình
vì người khác, thì ngay cả khi hơi giả dối,
thì hành động cố gắng tút tát đẹp nhất có thể nhằm để nâng cao đánh giá của người
khác về "mình". Cho nên,vì sống trong một nền văn hóa xem trọng sự
đánh giá bản thân mình của người khác như thế thì thể diện trở thành một chiến
lược sinh tồn không thể thiếu để duy trì và gìn giữ cuộc sống cá nhân.
2.2.1. Theo đuổi hạng nhất
Ảnh
hưởng hệ tư tưởng giá trị Nho giáo, đề cao danh tiếng, năng lực nên trong xã hội
Hàn Quốc thể diện được công nhận khi con người đạt được mục tiêu cao nhất và xếp
hạng nhất. Lúc này thể diện được tăng lên cao hơn, được ngưỡng mộ, được ngợi ca.
Vì thế, ảnh hưởng truyền thống giáo dục từ nhỏ trong gia đình, người Hàn có xu
hướng đua nhau nâng thể diện qua trình độ học vấn, chinh phục vào ngôi trường
danh tiếng như Seoul, Korea, Yonsei. Chính chủ nghĩa hạng nhất dẫn đến áp lực về
giữ gìn thể diện càng cao.
Bản
chất, định hướng hạng nhất bắt nguồn từ mong muốn vô thức được đánh giá vẻ bề
ngoài, sự giàu có hoặc địa vị xã hội thực tế, hoặc nhận được tôn trọng, công nhận
từ xã hội. Vậy nên, không những chăm chỉ nâng cao năng lực, người Hàn có xu hướng
bộc lộ hành vi cạnh tranh, ganh đua dưới dạng luôn dẫn đầu các trào lưu, sưu tập
nhiều thành tích, thể hiện hào phóng, dư dả trong mua sắm, tiêu dùng hàng hiệu…
2.2.3. Theo đuổi địa vị
Ở
Hàn Quốc, thể diện của một người được quyết định bởi địa vị và thân phận xã hội
của bản thân hoặc người đàn ông trong gia đình. Vì thế, giữ gìn địa vị, nâng
cao địa vị, danh phận cần đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của xã hội về học vấn,
kinh tế, gia thế,…Đồng thời chính bản thân người ấy cũng cần xây dựng hình ảnh
phù hợp với địa vị đó. (Lim Tae-seop, 1994; Choi Sang-jin, Yoo Seung- yeop,
1992; Choi Sang-jin và Kim Ki-beom, 1998). Tầm quan trọng của địa vị có thể bắt
nguồn từ ý thức yangban- quý tộc trong quá khứ. Qua cách ăn mặc, mua sắm, phong
thái nói năng, ứng xử, đi đứng, người khác có thể dự đoán đúng danh phận, vị trí,
chất lượng sống của nhân vật nào đó trong xã hội Hàn. Và người có địa vị càng
cao thì nhu cầu giữ thể diện càng lớn. Người nam thường có trách nhiệm giữ thể
diện cao hơn người nữ.
2.2.4. Mang tính tự
phòng vệ
Người
Hàn nỗ lực xây dựng và phô trương các giá trị ra bên ngoài, bộc lộ bằng vẻ
ngoài với mục đích được người khác công nhận sự tồn tại, hiện diện của họ. Nếu rơi
vào tình huống bị phớt lờ không để ý, không chấp nhận thì lòng kiêu hãnh, tự trọng
của người Hàn sẽ bị tổn thương. Lúc này, phản ứng sẽ cảm thấy xấu hổ, mất thể
diện. Do đó, thể diện của người Hàn được bộc lộ qua các chức danh xưng hô, mua
sắm hàng hiệu, check in du lịch khắp nơi như một cách để bảo vệ lòng tự trọng của
họ trong các mối quan hệ cá nhân và xã hội. Những hành vi thể hiện bên ngoài
mang tính chất giúp người Hàn vượt qua cảm giác tự ti, thỏa mãn nhu cầu được
người khác xem là quan trọng.
2.2.5. Xu hướng tuân thủ
đám đông
Đây là đặc điểm đáng lưu
ý trong văn hóa thể diện của người Hàn. Mối quan hệ trong xã hội Hàn Quốc thiên
về thứ bậc, trật tự, có quan hệ tôn ty, có tổ chức chặt chẽ. Văn hóa xã hội người Hàn tồn tại mối quan hệ người
trên nâng đỡ người dưới, người dưới hỗ trợ phục tùng người trên tạo nên một cộng
đồng chặt chẽ. Người Hàn luôn tuân thủ nhất quán chỉ thị của cấp trên, tuân thủ
ứng xử theo tiêu chuẩn của mọi người. Đặc điểm tuân thủ này cũng cố niềm tin mạnh mẽ cho người Hàn mà không cần
suy nghĩ quá nhiều, cứ tự tin làm theo đám đông. Và đặc điểm này giúp tạo dựng quyền uy trong xã hội Hàn. Việc đồng tình
như làm theo ý kiến của người khác trước sự phản đối của nhiều người tại một
cuộc họp cũng được coi là thuộc phạm trù thuộc hành vi giữ thể diện.
CHƯƠNG III. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN
CHẾ CỦA TÍNH TRỌNG THỂ DIỆN TRONG VĂN HÓA HÀN QUỐC
3.1. Ảnh hưởng tích cực của tính trọng thể diện
Mỗi một giá trị tính
cách của người Hàn đều có tác động hai mặt đến văn hóa, lối sống, xã hội Hàn Quốc.
Thông qua các nội dung và ví dụ ở chương I, II, tính trọng thể diện trong tính
cách người Hàn có tác động tích cực như
sau:
Thứ nhất, “Thể diện”
giúp con người luôn ý thức được giữ gìn phẩm giá, nhân cách. Việc xem trọng thể
diện tạo động lực thúc đẩy người Hàn không ngừng nỗ lực cố gắng để tạo ra nhiều
của cái vật chất cho gia đình và đất nước Hàn Quốc. Chính thể diện khiến người
Hàn trở nên chăm chỉ cần cù hơn, năng động tìm kiếm cơ hội đầu tư, làm ăn kinh
doanh, kích thích nhu cầu tiêu dùng, phát triển kinh tế. Đồng thời, thể diện
cũng giúp người Hàn chú trọng đầu tư vào học tập, phát triển năng khiếu, suy
nghĩ trăn trở nhiều hơn góp phần phát triển đời sống tinh thần, tâm lý cảm xúc
phong phú.
Thứ
hai, “thể diện” giúp người Hàn hoàn thiện nhân cách và ứng
xử. Xem trọng thể diện góp phần nhắc nhở người Hàn luôn đặt mình vào các mối
quan hệ xung quanh, biết suy nghĩ cho người khác, biết kiềm chế hành vi, biết
quan tâm, biết kiềm chế dục vọng bản thân, biết đặt lợi ích tổ chức lên lợi ích
cá nhân. Từ đó, xây dựng hình ảnh Hàn Quốc đoàn kết, đáng tin cậy, thân thiện lan
tỏa ra khu vực và thế giới và dễ dàng đạt được các mục tiêu phát triển chung dưới
sự dẫn dắt của lãnh đạo trong thời gian ngắn.
Thứ ba, “ thể diện” là động
lực thúc đẩy cá nhân người Hàn không ngừng hoàn thiện, không ngừng vươn lên khẳng
định vị trí của mình; nâng cao năng lực cạnh tranh; khả năng sáng tạo, ý thức dẫn
dắt đi đầu của quốc gia về trình độ học vấn, về phát triển kinh tế, lan tỏa giá
trị văn hóa, lịch sử ra toàn cầu. Minh chứng Hàn Quốc càng có nhiều tập đoàn
mang tầm ảnh hưởng đến quốc tế và các sản phẩm văn hóa âm nhạc, điện ảnh, thời
trang, làm đẹp,… đang được nhiều quốc gia yêu thích.
Tóm lại, trọng thể diện
giúp Hàn Quốc xây dựng bản sắc văn hóa truyền thống bền vững và trở thành một
quốc gia nhận được thiện cảm, tín nhiệm cao trên thế giới.
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của tính trọng thể diện
Với tính hai mặt luôn tồn tại, tính trọng thể diện cũng có những mặt trái
đáng chú ý khắc phục.
Thứ nhất, tính trọng thể diện khiến người Hàn luôn cố gắng phô trương những
giá trị trái với bản chất thực tế, theo đuổi hình thức, địa vị, thứ hạng dẫn đến
hình thành nhận thức lối sống phù phiếm và xa hoa vượt quá địa vị và hoàn cảnh
của họ, và đôi khi mua những món đồ xa xỉ không phù hợp với khả năng gây ra tệ
nạn xã hội như nợ nần, lừa đảo,…
Thứ hai, thể diện là nguồn gốc của chủ nghĩa hình thức thái quá. Người Hàn
sẽ luôn trong cảm giác mẫu thuẫn đấu tranh vì sống giả dối. Quyền tự do cá nhân
của người Hàn bị hạn chế khi phải quan tâm đến những gì người khác sẽ nghĩ về bản
thân, và ngược lại. Áp lực tâm lý ngày càng nặng nề khiến người Hàn ngày nay
càng dễ mắc những căn bệnh tâm lý như: trầm cảm, cô độc, tự ti. Khi không thỏa mãn
tiêu chuẩn cá nhân và của xã hội, người Hàn dễ bị tổn thương, xấu hổ. Chuyển biến
áp lực về tâm lý ấy, dẫn đến những hệ quả đáng buồn như: lạm dụng thẩm mỹ, lạm
dụng tiêu xài để lấp đầy thỏa mãn…thậm chí tỷ lệ tự tử ở thanh thiếu niên ngày
càng cao.
Thứ ba, vì quá trọng thể diện nên người Hàn thường cố chấp và khá bảo thủ. Cấp
trên không thể chấp nhận được lỗi sai khiến mối quan hệ trên dưới bất bình đẳng,
đánh mất sự nể phục trong lãnh đạo, niềm tin, lòng trung thành gắn bó và bền vững
đồng hành phát triển.
Cuối cùng, tính trọng thể diện là nguồn gốc cũa “hận” trong dân tộc Hàn. Vì
sợ công khai ‘hận’ có thể làm lộ điểm yếu của bản thân, tổn hại đến thể diện
nên người Hàn khi có việc oan ức có khuynh hướng cho rằng dù có công khai thì
cũng không giải quyết được trọn vẹn, nên sẽ là khôn ngoan hơn nếu che đậy việc
đó đi. Bởi vậy, sự thất bại sẽ không lộ ra ngòai mà chỉ ẩn trong lòng thành ‘hận’
(Im Th’ae Sob, 2003).[16] Hận sẽ cần hóa giãi, có thể
giãi hận bằng cam chịu, báo thù bất chấp thủ đoạn hoặc tìm đến tự tử.
KẾT LUẬN
Cùng trong dòng chảy của nền văn hóa có mối liên hệ chặt chẽ với loại hình
nông nghiệp lúa nước và ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, người Hàn Quốc coi trọng
thể diện hơn người Việt. Tính trọng thể diện của người Hàn Quốc có khuynh hướng
thiên về đối đầu và độc đoán hơn là sự hòa đồng; và hành vi ứng xử lệ thuộc vào
hoàn cảnh bên ngoài hơn là ý thức xã hội. (Choi Sang-
jin, 1992). Tính trọng thể diện của người Hàn mang tính trọng hình thức thái
quá, theo đuổi thành tích, thứ hạng hay địa vị, tuân thủ một chiều cần biết kiểm
soát. Ngược lại, việc giữ thể diện là phẩm hạnh nên cần chọn lọc gìn giữ để giữ
vững nhân cách cao quý của dân tộc. Việc bỏ đi thể diện tuyệt đối không thể. Vì đối với người Hàn, thể diện trở thành giá trị tiêu chuẩn vô cùng quan trọng
góp phần hình thành nên tính bản sắc. Mặc dù một số giá trị văn hóa truyền thống
của người Hàn đã bị thay đổi, thậm chí mất đi nhưng 3 đặc trưng giá trị có nguồn
gốc chủ yếu từ phương thức mưu sinh, gồm “Lối sống trọng tình”, “Khả năng linh
cảm cao”, và “Tính trọng thể diện” đều vẫn tiếp tục duy trì./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trần Ngọc Thêm, 2014, Những vấn đề văn hóa học lý luận và
ứng dụng, NXB Văn hóa Văn nghệ Tp. HCM, P.351-355
2.
Trần Ngọc Thêm, 2023, Bài giảng Hệ giá trị dân tộc Hàn
3.
Trần Ngọc Thêm, Vai trò tính cách dân tộc trong quá trình
đô thị hoá ở Hàn Quốc (có so sánh với Việt Nam), Nghiên cứu con người số 6 (15)
2004.
4.
김 용 운, 2002,초등학교 교사들의 체면지향행동에 관한 조사 연구, 창원대학교 교육대학원, 교육학석사학위논문 ( trang 5,6)
5.
이재진.윤성용, 2010, 한국인의 체면중시문화가 명품태도에 미치는 영향에 관한 연구- A Study on
Relationship between Korean’s Traditional Trait and Attitude for Luxury Goods, 글로벌 경html.
6.
http://lib4.changwon.ac.kr/cwu_img/cwu81907.pdf
7.
https://uehenter.com/thoi-si-dien-hao-cua-nguoi-viet.scoms
8.
https://zingnews.vn/nam-gioi-han-quoc-trang-diem-khi-di-lam-ngay-cang-nu-tinh-post973167.html
[1] 이재진 · 윤성용, 2010, 한국인의 체면중시문화가 명품태도에 미치는 영향에 관한 연구,
Tr 64
[2] 김 용 운, 2002,초등학 교 교 사 들의 체면지향행동에 관한 조사 연구- A Survey on the Social Reputation Recognition of Elementary Schoolteachers in Korea. P.2
[3] Dẫn theo Trần Ngọc Thêm. 2023. Bài giảng hệ giá trị của dân tộc Hàn. P.14
- 20
[4] Dẫn theo 이삭, 2021.체면문화 사회 속에서 적실성있는 설교적용 연구- A Study on the Practical Application of
Sermons in a Face Culture Society, P.11.
[5]Dẫn theo Trần Ngọc Thêm. 2023. Bài giảng hệ giá trị của dân tộc Hàn, p.86
[6] Dẫn theo Trần Ngọc Thêm. 2023. Bài giảng hệ giá trị của
dân tộc Hàn, P.12
[7] Dẫn theo 김 용 운, 2002,초등학교 교사들의 체면지향행동에 관한 조사 연구, 창원대학교 교육대학원, 교육학석사학위논문, P.5
[8] https://wordrow.kr/%EC%86%8D%EB%8B%B4/%EC%B2%B4%EB%A9%B4%EC%97%90-%EA%B4%80%ED%95%9C-%EC%86%8D%EB%8B%B4/
[9]
https://vnexpress.net/nguoi-tre-han-quoc-so-cuoi-vi-ton-kem-4032060.html
[10] Dẫn theo https://zingnews.vn/nam-gioi-han-quoc-trang-diem-khi-di-lam-ngay-cang-nu-tinh-post973167.html
[11] Dẫn theo Trần Ngọc Thêm. 2023. Bài giảng hệ
giá trị của dân tộc Hàn, P 70 -71
[12] https://vnexpress.net/qua-trinh-vuon-len-top-dau-the-gioi-cua-nen-giao-duc-han-quoc-3837252.html
[13] https://icolanguage.edu.vn/van-hoa-hoc-hoac-chet-o-han-quoc-309.htm
[14]
https://vneconomy.vn/ly-do-nao-thuc-day-nguoi-han-quoc-mua-hang-hieu-nhieu-nhat-the-gioi.htm
[15] https://www.iusm.co.kr/news/articleView.html?idxno=262965
[16] Dẫn theo Trần Ngọc Thêm, 2023, Bài giảng hệ giá trị dân tộc Hàn, P.88
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét